Sự kiện này đã được nhấn mạnh trong một bản báo cáo về thống kê từ Viện Chiến Lược và Phát Triển (Institute of Strategy and Development, viết tắt ISD), một cơ quan thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Ministry of Planning and Invesment).
Bản tường trình kết luận rằng, trung bình, một nông dân Việt Nam có 0.14 hec-ta (ha) đất để trồng trọt. Nhưng mức trung bình của nông dân trên khắp nơi trên thế giới là 0.59 ha. Mức trung bình của nông dân Á châu là 0.26 ha.
Từ một quốc gia nghèo có nhu cầu nhập cảng gạo trong thập niên 1980s, Việt Nam đã trở thành nước xuất cảng gạo lớn thứ 3 trên thế giới vào cuối thế kỷ 20. Thập niên 1990s mức xuất cảng gạo tăng mức trung bình 4.8% (hay 1.1 triệu tấn) hàng năm. Toàn bộ sản lượng thực phẩm nhảy vọt lên từ 295 kilo gam mỗi đầu người trong năm 1990 tới mức dự đoán 442 kilo mỗi đầu người năm 2000.
Tuy nhiên một sự nguy hiểm trong việc đạt được những bước nhảy vọt lớn là tiến trình có thể trở nên không chịu đựng nổi. Việt Nam phải xử dụng tối đa những nguồn đất thích nghi . Toàn quốc, có ước lượng 10 triệu hecta đất có thể dùng cho nông nghiệp. Nhưng tới nay chỉ có 8.4 triệu hecta được xử dụng cho nông nghiệp.
Bản tường trình cho biết, có khoảng 20,000 hecta được đưa vào những mục đích không phải nông nghiệp, như đường xá, công xưởng và những khu kỹ nghệ. Đáng lo là, bản tường trình ghi nhận, các năm gần đây 100,000 đến 200,000 hecta rừng bị tàn phá bởi những cư dân, thường để làm nhà và làm nông trại nhỏ.
Việc phá rừng do cư dân có thể làm kiệt quệ những nguồn nước và tiêu hủy những lưu vực sông. Hậu quả đóng góp vào những thiên tai lụt lội. Không có rừng để giữ nước lại từ những cơn mưa lớn, các dòng nước chảy nhanh có thể chảy tháo đi từ những ngọn đồi trọc, phá hủy cuộc sống và những vùng trồng trọt liên đới.
Tiến sĩ Nguyễn Thế Hiển của ISD, đã nhận xét: "Nguy cơ một sự giảm mạnh xuống về đất canh tác đã trở nên rõ ràng. Đây là một sự thử thách lớn để phát triển về khu vực nông trại vùng thôn quê."