Bất cứ kẻ nào nói ta đúng 100%, thì đó là một thằng cuồng tín, một tên ác ôn côn đồ, một thứ mặt dầy mặt mo tệ hại nhất.”
Một người Do Thái già ở Galicia
(Milosz trích dẫn).
Milosz viết Cầm Tưởng (La Pensée Captive) ở Paris, khi còn Staline. Cuốn sách gây những biến động khó lường ở Ba Lan, quê hương nhà thơ. Thoạt tiên bị coi là “phạm thánh”, và chỉ được đọc lén, dần dà tới năm 1956 được vinh danh qua việc trích dẫn bởi sách báo nhà nước. Sự thực, ngay vào thời kỳ đó, có những người chỉ trích, rằng cuốn sách muốn giải thích, và từ đó, biện minh, về những hành xử, thái độ của tầng lớp trí thức vốn đã quen quay mòng mòng bởi nhà nước và chế độ. Một số người lại coi nó quá bi quan, không đếm xỉa gì tới đà tiến lên của thế hệ trẻ, vốn độc lập so với đám già gì thì gì cũng há miệng mắc quai, tay đã nhúng chàm. Một thời gian sau, nó lại được đưa vào danh sách đen những tác phẩm nguy hại.
[Trong lời mở đầu, bản tiếng Anh, tác giả đưa ra một số nhận xét về nước Pháp thời kỳ 1951/52, khi tác giả viết Cầm Tưởng: đa số trí thức Pháp cảm thấy xứ sở bị lệ thuộc vào Mỹ, đã đặt hy vọng vào một thế giới mới từ phía Đông, dưới sự lãnh đạo của Stalin, một nhà lãnh đạo khôn ngoan, đạo hạnh không ai có thể sánh được. Khi Albert Camus, người dám nhắc tới những trại tập trung, như là những viên gạch đầu tiên tạo nền móng cho chế độ Xã hội chủ nghĩa, đã bị đồng nghiệp trí thức xỉ vả không hết lời!]
Triết gia Karl Jaspers, trong lời mở đầu bản tiếng Pháp (Gallimard, tiếng Anh của Knopf, New York, cùng được xb năm 1953), coi những bài tiểu luận ở trong Cầm Tưởng là một tài liệu, và cùng lúc, một dẫn giải thuộc loại hảo hạng. Ông giải thích thêm:
Về chuyện biến trí tuệ, tinh thần con người trở nên nô lệ, ở trong những chế độ toàn trị, chúng ta, những người Đức thời kỳ quốc xã, đã có kinh nghiệm. Chúng ta đã từng biết những sắc thái bề ngoài (những khẩu hiệu, thái độ, cách hành xử hàng ngày) và chúng ta cũng đã nhận ra điều gì đang xẩy ra ở bên trong chúng ta, vào thời kỳ đó. Cuốn sách bầy ra cho chúng ta thấy chuyện gì xẩy ra ở những chế độ dân chủ nhân dân ở phía Đông, đặc biệt là ở Ba Lan. Nó gây ấn tượng đối với chúng ta, chắc là nhiều hơn so với những người khác, bởi vì chúng ta đã từng trải qua, cái điều đang xẩy ra ở đó.
Thường thường, người ta có thói quen áp dụng những bản kẽm cũ mòn, về những chuyện đang xẩy ra ở đó: dối trá, lừa bịp/ chân lý, chính nghĩa, sự thực; phản động, phản quốc/phản kháng, ly khai… Với cuốn sách, không giản dị như vậy, mà là hoàn cảnh, thực tại “thực’. Bằng cách nào, những con người thay đổi, một khi không ngừng cảm thấy, đè nặng lên họ, là một hiểm họa huỷ diệt, và cùng lúc đó, họ còng lưng gánh vác lịch sử, theo nghĩa, đây là niềm tin, đây là chân lý: lịch sử cần thiết như thế đó. Và đó là Niềm Tin Mới. Tác giả nhớ lại thời kỳ 1945, mốt thời thượng trong những câu lạc bộ trí thức ở Varsovie, là so sánh chủ nghĩa cộng sản với sự ra đời của thiên chúa giáo. [Jennifer tôi còn nhớ, một ký giả đã từng hỏi ông Trùm Đỏ Stalin, bao giờ thì đảng cộng sản có một Đức Gáo Hoàng].
***
Chắc chắn một điều, Milosz viết Cầm Tưởng từ những kinh nghiệm ông đã từng trải qua, kể luôn cả cái kinh nghiệm cay đắng của một nhà văn nhà thơ bị rứt ra ra khỏi tiếng nói mẹ đẻ. Nhưng đây mới là điều tuyệt vời: Cầm Tưởng đã được gợi hứng từ những tư tưởng của một vị thánh, một vị nữ lưu số một của thế kỷ 20: Simone Weil.
Trong Tin Văn kỳ tới, Jennifer tôi sẽ cống hiến quí vị, về cuộc gặp gỡ lạ lùng, giữa một nhà thơ và một vị thánh này.