“Bằng những nguyện lực chân thật này, con mong đem lại an ổn cho vô lượng vô biên chúng sanh.
Do thiện căn ấy, tất cả mọi đời con đều có được Chánh pháp trí. Đây là đại nguyện thứ nhất.
Sau khi đã có Chánh pháp trí, bằng tâm không mệt mỏi, con sẽ giảng cho tất cả chúng sanh. Đây là đại nguyện thứ hai.
Đối với sự nhiếp thọ Chánh pháp, con xả bỏ thân, mạng và tài sản để hộ trì Chánh pháp. Đây là đại nguyện thứ ba” (*)
Khách lữ bước chậm hơn. Trăng sơ huyền lung linh bắt chước Thiên-nữ. Không có hoa, trăng thả rơi từng nốt nhạc, tán thán tâm từ và giải ngộ tâm sân:
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới
Một mầu xanh mù tỏa vô biên
Bóng sao đêm dài vời vợi;
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền,
Chiều như thế, cung trầm khắc khoải
Rát đầu tay, nốt nhạc triền miên
Ôm dấu lặng, nhịp đàn đứt vội
Anh ở đâu, khói lụa ngoài hiên" (+)
Chuỗi hạt chầm chậm, chầm chậm di theo hai đầu ngón tay lần trên từng hạt tròn, mỗi hạt đang ôm một niềm đau. Lạ lùng thay, niềm đau nay như luôn hằn theo từng nhịp của tứ khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử với sự tiếp sức tận tình của Vô Minh. Quả thế, tự thân Sinh, Lão, Bệnh, Tử chưa đủ khổ mà Vô Minh còn phủ chụp dằng dặc oan khiên nên quê hương thành ngục tù, đồng bào thành nô lệ, rừng xanh thành bãi chiến, muông thú thành mồi ngon .... Bước chân khách lữ bỗng như vội vã, những hạt Bồ Đề lăn nhanh hơn. Và trăng nghe thấy lời Kinh thổn thức:
“Như Lai là Bậc Đại Bi không giới hạn; và an ủi thế gian cũng không giới hạn. Cho nên, đối với thế gian chưa được cứu độ, đối với thế gian không nới nương tựa mà làm nơi vô tận quy y, thường trụ quy y, cho đến suốt cùng hậu tế ...” (*)
Trăng lướt qua làn mây, cực kỳ rung động, tỏa sáng chân kinh. Âm ba cung đàn khổ lụy rơi xuống, bỡ ngỡ diệu thanh:
Trên đầu thăng
âm đàn chĩu nặng
Khóe môi in dấu hận nghìn trùng
Âm đàn đó,
chìm sâu ảo vọng
Nhịp tim ngừng, trống trải thời gian (+)
Khách lữ đã bước vào đồng bằng, núi sau lưng chỉ còn là bóng nhạt. Giữa phố thị im tiếng cười, khách lữ xoa đầu, cầm tay trẻ nhỏ. Tay chúng khô gầy như nhánh gẫy sầu đông; Nhưng kìa, mắt chúng sáng như sao mai vừa mọc. Ngôi sao này kỳ ảo quá, không chỉ biếc xanh mà rục rỡ quang minh, không chỉ soi sáng đồng bằng này mà kìa, núi cùng biển cũng đang long lanh ánh bạc.
Đó là ánh sao mai đã rực sáng khu rừng Bồ Đề ven sông Ni Liên Thuyền gần 2600 năm trước.
Không thể lầm được. Khách lữ không thể lầm được. Cùng với đám trẻ, khách lữ quỳ xuống khi tới trước cổng Thị Ngạn Am. Chuỗi hạt lần trong tay, từng hạt, từng lời Kinh rõ rệt:
“.... Như Lai tạng với tự tánh thanh tịnh, tuy bị nhiễm ô bởi phiền não khách trần và phiền não hiện khởi, nhưng vẫn là cảnh giới bất tư nghị của Như Lai. Vì sao" Thiện tâm sát-na không phải là bị nhiễm ô bởi phiền não. Bất thiện tâm sát-na cũng không phải là bị nhiễm ô bởi phiền não. Phiền não không xúc tâm; tâm không xúc phiền não, vậy đâu có thể pháp không xúc mà có thể nhiễm ô tâm được ...” (*)
Trăng sửng sốt gọi mây che nửa vầng nguyệt quế để nửa vầng kia như dáng cúi đầu. Phút giây thôi, đã ngát dậy mùi hương chiên-đàn. Ồ, thiên-nữ tới rồi đây. Cùng với hoa trời, trăng dịu dàng rải nhạc:
Ta bay theo đốm lửa lập lòe
Chập chờn trên hoang mạc mùa hè
Khung trời nghiêng xuống nữa
Bên rèm nhung đôi mắt đỏ hoe
Thăm thẳm chòm sao Chức nữ
Heo hút đường về (+)
Trăng mơ màng hát, không biết rằng đám trẻ đã quay vào thành phố, đang lục tìm trong bãi rác chút dư thừa phế bỏ. Với tâm không nhiễm ô, chúng nhai mẩu bánh vừa nhặt, và hát theo trăng.
Trăng cũng không biết bước chân người xuống núi vừa qua cổng trúc, qua hàng dừa, bụi chuối, qua những chậu hoa nhỏ, những khóm lan nương trên thân bách diệp và đang bước trên từng nấc thang hẹp.
Khi trăng ngưng hát, thiên-nữ đã về trời tự lúc nào, cửa trúc đã khép, chiếc võng bên hàng hiên đong đưa với gió.
Thị Ngạn Am chìm trong tĩnh lặng.
Thiền-sư vừa nhập thất.
Diệu Trân
(Kỳ nhập thất tháng 10 – 12, năm 2005)
(*) Thắng Man giảng luận, Thích Tuệ Sỹ
(+) Thơ Thị Ngạn