Từ Đại diện Giáo Hoàng, TT Bush, đến TT Balan, tất cả đều ca ngợi công lao của "Công Đoàn Đoàn Kết" đã "khởi điểm cho công đoàn và trào lưu mà trong đó những người đàn ông, những người phụ nữ đã kết hợp sức mạnh, đòi hỏi những vấn đề chính trị cơ bản và quyền sống tốt đẹp hơn [lời TT Bush]."
Thực vậy giở lại trang sử cận đại bi hùng của dân tộc Ba lan, người ta không khỏi ngưỡng mộ ý chí kiên trì và sức chịu đựng để thành công trong một cuộc đấu tranh ai cũng nghĩ đó là một cuộc đấu tranh không thể thắng được. Sau nhiều ngày kiên trì đình công bãi thị, kiên quyết tuyệt thực đấu tranh, bám từng tấc đất của cảng Gdansk dưới sức ép, sức đùa, sức càn quét của dùi cui, lưỡi lê, và họng súng, Chủ Nhựt 1-8-1980, lực lượng công nhân đòi chính phủ Cộng Sản Ba Lan phải cho thành lập nghiệp đoàn và phải trả tự do cho những nhà lãnh đạo phong trào-đã thành công.
Trước sức ép của quần chúng, trong vòng bao vây của quần chúng, Phó Thủ Tướng CS Ba Lan đứng đầu phái đoàn đàm phán vô cùng căng thẳng. Theo tường thuật lại trong buổi lễ, "Ông ta ở trạng thái vô cùng căng thẳng, trong suốt mấy tiếng đồng hồ với điếu thuốc lá trên môi, ông không hút mà ngậm nát rồi nuốt gần hết lúc nào không hay. Ông nói qua điện thoại: Nếu không giải quyết xong vấn đề thì chúng tôi khó lòng ra khỏi cảng, bới vì tình hình đang hết sức nóng bỏng, những người công nhân ở đây sẵn sàng bất cứ lúc nào xé chúng tôi ra thành nhiều mảnh". Bộ Chính Trị Đảng CS Ba Lan không còn cách nào khác phải lùi một bước, tạm nhương bộ yêu sách của lực lượng công nhân đấu tranh để chuẩn bị dùng bạo lực đàn áp mạnh. Nhưng vô ích, cảnh sát, công an, quân đội đã run tay súng và dùi cui trước sức mạnh của quần chúng, không thể bắn vào bà con cô bác bè bạn mình đang đấu tranh vì quyền lợi mà lương tâm họ cũng nhận là chánh đáng.
Phải mất 9 năm trời với máu, mồ hôi nước mắt, tù đày, bị đánh đập, để đấu tranh trong lòng địch như vậy mới để có buổi chiều của "Thoả thuận Tháng Tám" được ký kết, công đoàn được tự do, độc lập, không bị đảng, nhà nước khống chế. Một tiền lệ đầu tiên trong hệ thống công quyền CS. Cục gạch nêm Ba Lan của cái vòm ghotic CS của Đế quốc CS ở Đông Âu và Liên xô bị gỡ, kéo theo sự sụp đổ của Đế quốc CS Liên xô trải rộng từ Á Châu sang Âu Châu.
Nhìn lại dòng lịch sử thấy "Thoả thuận Tháng Tám" giản dị và dễ dàng vậy. Chớ thực tế tình hình của cuộc đấu tranh về phía nhân dân vô cùng khó khăn nếu so tương quan lực lượng của người dân đấu tranh đối với nhà cầm quyền CS và đối với quốc tế. Đó là cuộc chiến giữa người lùn với người không lồ Goliath nói theo người Âu, là châu chấu chống xe nói theo người Việt. Và chính cái nhìn đó làm người dân Việt tăng hy vọng trong cuộc đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ bị CS Hà Nội cướp đoạt ngoài Bắc nửa thế kỷ, trong Nam một phần ba thế kỷ.
Thời nhân dân Ba Lan đấu tranh, các cường quốc còn tệ hơn bây giờ, co đầu rút cổ, bất động, miệng im đáng sợ, không dám giúp cho người Ba Lan vì sợ nhảy vào thì Liên xô sẽ phản ứng, chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra. Nhưng người dân Ba Lan không vọng ngoại, mà biến đau thương thành hành động, không một tấc sắt trong tay nhưng lấy niềm tin tự do, dân chủ, công chính làm vũ khí để chống lại Đảng, Nhà nước CS binh hùng, tướng mạnh đã cướp đoạt những quyền bất khả tương nhương của Con Người.. Người này ngả dưới dùi cui, lưởi lê, họng súng của bạo quyền CS, người khác đứng ra, đứng lên tạo thành thế lực quần chúng. Thế lực người dân làm rung tay súng công an quân đội, làm rủng chí nhà câm quyền CS và sau cùng là Bộ Chánh trị của Đảng CS Ba Lan. Quần chúng dài hơi hơn, quần chúng thắng, đó là định luật của của đấu tranh, của cuộc cách mạng hòa dịu mà thuật ngữ chánh trị sau này gọi là "cách mạng nhung."
Ba Lan và Việt Nam là hai quốc gia tuy nòi giống, lịch sử, địa lý, văn hóa khác nhau nhưng có điểm chung chánh trị. Cùng bị thực dân ngoại bang cai trị và bị cộng sản độc tài thống trị. Cùng khát vọng tự do, dân chủ. Và tự do, dân chủ trong lịch sử Loài Người không bao giờ chờ, xin mà có; đấu tranh mới được. Đấu tranh không thể một sớm một chiều mà thành, phải kiên trì gian khổ chịu đưng mới thành. "Nếu đường đời bàng phẳng cả; Thì anh hùng hào kiệt có hơn ai."
Việt Nam bây giờ có lợi thế hơn Ba Lan khi xưa nhờ xu thế toàn cầu dân chủ, tự do của thời đại hậu Chiến tranh Lạnh. Và nhứt là có ba triệu người Việt Hải Ngoại vừa là những nhà đấu tranh vừa là những nhà ngoại giao bình dân ở các cường quốc mà CS Hà Nội đang rất cần. CS Hà Nội đang ở thời kỳ thoái trào vì chủ nghĩa CS thất bại đứng về mặt họcù thuyết cũng như thực tế trên thế giới.
Việt Nam chưa có nghiệp đoàn, nhưng có liên tôn đấu tranh cho tự do tôn giáo. Và phong trào đang biến từ điễm sang diện, từ phẩm sang lượng. Tư do, dân chủ, nhân quyền û của toàn dân Việt Nam, chính CS Hà Nội cũng thú nhận là "trở ngại trung tâm" trong bang giao với Mỹ. Sớm hay muộn người dân trong nước cũng nổi dậy. Lý do nổi dây chống CS ở Việt Nam nhiều và mạnh hơn ở Ba Lan vì liên quan sâu sắc đến quyền lợi sát sườn của người dân hơn ơ Ba Lan. CS tham nhũng làm người dân thêm sức mạnh chống CS và làm CS thêm rệu rả về cơ cấu tổ chức đảng và guồng máy cầm quyền. Nhứt hậu hôn nhì điền thổ; đất đai là quí đối người dân Việt, mà CS lại cướp để cho ngoại quốc xây dựng cơ sở kinh doanh. Mối thù cướp đất cộng với cái oán ngoại bang đồng lõa với CS để trục lợi sẽ khiến thôn dân vác phảng để chém công an, thị dân dùng xăng đốt xe cảnh sát. Mối thù CS đàn áp tôn giáo đã khiến người có tín ngưỡng lấy than mình làm ngọn đước soi sáng tư do tín ngưỡng đối trướclương tâm Nhân Loại.. Dù CS có xây thêm hàng ngàn trại tù, nhốt cũng không đủ. Dù cho Mỹ và ngoại quốc có đổ hàng trăm tỷ Đô vào đầu tư cùng CS trục lợi trên thiệt thòi của người dân Việt, kinh tế cũng không cứu được chánh trị của CS Hà Nội quá bá đạo, quá phi nhân, quá độc tài đảng trị. Tức nước phải bể bờ. Cũng như người dân Ba Lan, người dân Việt Nam sẽ tự giải quyết việc của mình.