Hôm nay,  

Tết Đoan Ngọ - Khóc Khuất Nguyên, Và Những Chiến Sĩ Vnch Đã Hy Sinh Vì Đại Nghĩa Dân Tộc

22/06/200500:00:00(Xem: 6707)
Trước khi có cuộc đổi đời bi thảm ngày 30-4-1975, ngưởi Việt quanh năm suốt tháng cứ bận rộn với tết nhất và lễ hội. Theo tập quán lâu đời của dân tộc, ngoài ba ngày đầu xuân, thiêng liêng rất được mọi người trân quý, Tết Đoan Ngọ hằng năm nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch, cũng rất được coi trọng, nên mới có câu phong dao trử tình, được truyền khẩu từ lâu đời, mà hầu như ai cũng thuộc :
' tháng tư đong đậu nấu chè,
ăn Tết Đoan Ngọ, trở về tháng năm..'
Lúc này thời tiết cả nước đã vào cuối hạ nhưng nơi nơi nắng ấm chói chang, xanh rực một màu. Chim chóc bé lớn đủ loại từ muôn phương rũ nhau về, xây tổ trên khắp các cành lá xum xê, ngay cả mái đình trường học, líu lo bay nhảy. Tháng năm cũng là thời gian bận rộn ở nông thôn vì sắp vào mùa cấy :
'tháng tư đi tậu trâu bò,
để cho ta lại làm mùa tháng năm '.
Vì truyền thống của dân tộc Việt, là vừa làm vừa ăn, nên mọi người đã cử hành Tết Đoan Ngọ một cách vui nhộn và trang trọng, theo đúng phong tục tập quán của tổ tiên bao đời.
Theo tài liệu có ghi nơi các sách Phong Thổ và Tuế Thời Tạp Ký..thì Đoan có nghĩa là mở đầu, còn Ngọ là giữa trưa. Bởi vậy Tết Đoan Ngọ thường được cử hành vào giữa trưa, thời gian mà vầng Thái Dương, treo ngay giữa đỉnh trời. Người Tàu còn gọi Tết Đoan Ngọ là ngày Trùng Ngũ. Nhưng dù có được gọi bằng tên gì chăng nữa, ý nghĩa ngày tết trên, là tưởng nhớ tới Khuất Nguyên, một thi gia lỗi lạc đầu tiên của Trung Hoa, cũng là một anh hùng nghĩa sĩ, suốt đời vì vua vì nước. Cuối cùng vì không đạt được lý tưởng, cảm thấy tủi hận buồn sầu, nên đã tuẩn tiết trong dòng sông Mịch La. Hôm đó nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch. Trong dòng sử Việt, ngay từ thời phong kiến cho tới ngày nay, xã hội Hồng-Lạc được xây dựng theo truyền thống Tam Giáo (Nho-Lão-Phật), lấy tam cương, ngủ thường, trung-hiếu-tiết-nghĩa, làm kim chỉ nam khi dấn thân vào đời. Do trên, danh tiết của Khuất Nguyên cũng đã ảnh hưởng tới sĩ phu trí thức VN, như Lữ Gia, Trưng-Triệu, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Lê Lai, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thái Học, Thủ Khoa Huân ..Mới đây lại có Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn..cùng nhiều chiến sĩ vô danh của VNCH, cũng đã chọn cái chết vinh, để không sống nhục, giữa lúc đất nước và dân tộc lọt vào cùm gông nô lệ. của chủ nghĩa đệ tam quốc tế, do Hồ Chí Minh và đảng VC cỏng từ Nga-Tàu về.

1- Ý NGHĨA CỦA NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ

Trước khi Khuất Nguyên tuẩn tiết, người Trung Hoa cổ cũng đã tổ chức lễ hội vui chơi vào ngày mồng năm tháng năm âm lịch nhưng chỉ nhằm mục đích cúng tế thần linh, xin phù hộ cho nhân gian tránh được những bệnh thời khí, do sự nóng bức quá độ của nắng hè gây ra. Về sau để ngày tết có ý nghĩa hơn, nhân dịp quan Đại Phu nước Sở là Khuất Nguyên, trầm mình chết trên sông Mịch La vào ngày mồng năm tháng năm. Thêm vào đó, trong ngày này có Lưu Thần-Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc, lạc bước tới được cõi Thiên Thai và đã kết duyên cùng tiên nử. Tất cả các ý nghĩa trên, được cô đọng trong ngày Tết Đoan Ngọ. Ngày này, các thầy thuốc cũng tổ chức cúng Tổ Đình và lễ tết các gia sư trong ngành.

** KHUẤT NGUYÊN :

Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, thì Khuất Nguyên sống vào thời Chiến Quốc (403-221 trước Tây Lịch TTL). Ông tên là Bình, tên chử là Nguyên, sinh năm 340 trước tây lich (TrTL), trong một gia đình quý tộc tộc, lại cùng họ với nhà vua. Sở lúc đó, là một trong bảy nước, có lãnh thổ rộng lớn, nằm ở bờ nam sông Dương Tử, tới tận biên giớiViệt-Lào-Thái-Miến ngày nay. Nước này đất rộng, dân đông nên rất cường thịnh. Từ lúc còn trẻ, ông rất ham mê đọc sách, nên gần như đã ngấu nghiến hết các tác phẩm danh tiếng đương thời, qua mọi lĩnh vực thiên văn, địa lý, lịch pháp, nông nghiệp, văn học và nghệ thuật. Bởi vậy ông có kiến thức rất là uyên bác và thực tế, nên được triều đình lúc đó rất coi trong.
Tham chính, được giữ chức Tả Đồ, một tước vị chỉ đứng dưới vua và quan tể tướng mà thôi, nhằm thời Sở Hoài Vương, có nhiệm vụ can ngăn, khuyên nhũ nhà vua mỗi khi hành động lầm lẫn. Ngoài ra Ông còn nổi tiếng văn hay, chữ tốt và là một thiên tài ngoại giao, nên được vua tin dùng, giao trọng trách Từ Lệnh, giúp Thiên Tử thảo Văn Án, soạn Sắc Lệnh..Tóm lai, trong triều ông thân cận bên vua, cùng bàn bạc việc nước. Ngoài ngõ, thay mặt thiên tử, tiếp xúc, bàn bạc với các phái bộ ngoại giao, của các lân bang và chư hầu. Nhờ vào tài trí lỗi lạc của Khuất Nguyên, nên vua Sở Hoài Vương lúc đó, được các nước Tề, Yên, Triệu, Nguỵ, Hàn, cử làm Lãnh Tụ phái Hợp Tung, do Tô Tần xướng xuất, để chống lại nước Tần hùng mạnh, lúc đó đang lăm le tóm thâu sáu nước, trong đó có Sở. Về đối nội, Khuất Nguyên chủ trương rất nhiều cải cách, trọng đó trọng dụng người hiền tài không phân biệt xuất xứ, làm cho dân giàu nước mạnh, để thống nhất Trung Nguyên, đã bị chia rẽ loạn lạc từ mấy trăm năm qua.
Thời nào cũng vậy, sĩ khí của đấng trượng phu trí thức, luôn khác biệt với tư cách hèn kém của bọn khoa bảng ích kỷ. Đó là không bao giờ vênh váo tự mãn khi đắc thời, cũng như chẳng thèm luồng lọt bưng bợ cấp trên, để vinh thân phì gia, giữ yên địa vị. Ngoài ra Khuất Nguyên vốn là bậc chính nhân, tình tình cương trực, chí khí trong sáng, không buông thả bản thân và lúc nào cũng đặt tổ quốc-danh dự-trách nhiệm, trên tầng cao ngất của cuộc đời, nên không bao giờ biết vị nể những kẻ làm bậy, dù đó là nhà vua hay hoàng thân quốc thích.
Nên mới bảo chữ tài liền với chữ tai một vần là thế đó. Bởi vậy ông đã đụng chạm tới bọn sâu dân mọt nước, lúc đó đang đầy rẫy trong triều đình nước Sở, mà đầu sỏ là Cận Thương, đang giữ chức Thượng đại phu. Bên cạnh đó còn có tập đoàn quý tộc nước Sở, do Tử Lan điều khiển, bị thua thiệt quyền lợi về những cải cách vừa ban hành, nên cũng ra mặt chống đối. Để loại trừ bậc trung thần, cũng là cái gai nhức nhối, bọn tham quan và quý tộc, đem rất nhiều vàng bạc châu báu, tới đút lót hối lộ cho ái thiếp của vua là Trịnh Tụ, nhờ đâm thọt, bôi bac Khuất Nguyên trước mặt thiên tử, với đủ tội xấu và tố cáo ông ỷ tài, lạm quyền, khi dễ nhà vua trước quần thần.
Nguyên Hoài Vương là một vị vua hôn muội, nên trúng kế gian, nghe lời sàm tấu, lần hồi xa lánh và không còn tin dùng hay nghe bất cứ một lời gì của ông như trước. Đã vậy, vua còn tin dùng Cận Thương, Tử Lan và đám nịnh thần. Quan trọng hơn hết là Sở Hoài Vương đã trúng kế ly gián của thuyết khách nước Tần là Trương Nghi, làm lũng bại kế sách Hợp tung chống Tần của Tồ Tần đề ra, khiến cho sự liên hiệp quân sự sáu nước tan rã. Trước tình cảnh nguy ngập của đất nước, Khuất Nguyên lúc đó tuy bị giáng chức, chỉ còn lo việc cúng tế trong cung đình, nhưng cũng hốt hoảng lo sợ, không phải vì bị bãi quan lột chức, mà là sự tồn vong của Sở quốc. Quả nhiên Hoài Vương, vì không chịu nghe theo lời can khuyên của ông, nên trúng kế phản gián của Trương Nghi, bị giam lỏng tại Hàm Dương và chết nhục hận trên đất Tần.
Khoảnh Tương Vương tức vị làm vua nước Sở, càng hôn muội hơn vua cha, lại thêm bên ngai có đầy bọn quan quyền thân Tần do Tử Lan cầm đầu. Bọn này bầy kế, dụ vua đầy Khuất Nguyên xuống cõi Giang Nam, ra khỏi triều chính. Tại đây ông thất chí, ngày ngày ca hát nghêu ngao như người điên, làm bài phú cuối cùng là ' HOÀI SA ' , trong đó gủi gấm tâm tình của một sĩ phu trí thức yêu nước nhưng bất lực trước bọn khoa bảng khỉ đột, gởi tới hậu thế như một lời vĩnh biệt. Trong nổi buồn đau thảm tuyệt, khi nhận được tin Sinh Đô của Sở đã lọt vào Tần và đất nước đang sắp diệt vong. Vì quân Tần đã tràn ngập Hán Bắc, nên ông cùng mọi người chạy loạn qua Hồ Động Đình, men theo sông Thuận Nguyên tới tận Tương Tây. Cuối cùng sống những ngày lang thang ở ngoại thành Trường Sa, rồi trong phút tuyệt vọng, ông ôm đá nhảy xuống dòng sông Mịch La, trầm mình tuẩn quốc, kết thúc cuộc đời của kẻ nặng tình với dân nước nhưng sinh bất trùng thời. Hôm đó nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch.
Được tin Khuất Nguyên tử tiết, vua Sở Tương Vương vô cùng thương xót và ân hận, nên ra lệnh cho dân chúng cõi Giang Nam, làm cổ bàn để cúng tế ông. Từ đó mới có tập tục gói Bánh Ú Tro bằng lá dông, ngoài buộc chỉ Ngủ Sắc, ném xuống sông. Riêng Mịch La là tên của một con sông nhỏ, chảy qua ngoại ô thành phố Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, quê hương Mao Trạch Đông và Chu Dụng Cơ, nguyên thủ tướng Trung Cộng. Tại đây, hằng năm vào dịp Tết Đoan Ngọ, đều có tổ chức đua thuyền với ý nghĩa, cứu vớt linh hồn của Khuất Nguyên, qua mấy ngàn năm u uất , phiêu lãng trên sông nước muôn trùng.
Sau khi Khuất Nguyên qua đời, nước Sở cũng có nhiều bậc văn nhân tài tử, danh tiếng lẫy lừng lúc đó như Tống Ngọc, Đường Lặc, Cảnh Sái..Những người này tuy rập đúng khuông mẫu của Khuất Nguyên trong sáng tac nhưng không có một ai có được tấm lòng yêu nước thương dân nồng nàn, cao đẹp như người sĩ phu trí thức họ Khuất. Bởi vậy cái đám khoa bảng ăn hại ích kỷ này, chỉ giỏi khoe danh và bằng cấp, để nổ và được mời ngồi trên chiếu trước giữa sân đình, chứ không một ai dám nói thật, can vua vì đâu có ai dại yêu nước, để chuốc lấy thân bại danh liệt và cái chết thảm khốc như bậc trung thần, nghĩa sĩ Khuất Nguyên. Rốt cục nước Sở từ đó, trên thì vua dốt, chung quanh là đám quan quyền quý tộc, ngu dốt tham lam chỉ biết kết bè hưởng thụ, ai chết mặc bây, tàn nhẩn phá nát triều cương, đâm sau lưng chiến sĩ, góp sức làm cho nước Sở bị tiêu diệt bởi bạo Tần.
Ngoài danh tiếng lẫy lừng về chánh trị và ngoại giao, Khuất Nguyên còn sáng tác rất nhiều thơ văn, hiện còn lưu lại hậu thế 25 tác phẩm rất nổi tiếng, vì ông là một thi hào lớn, có địa vị cao trong nền văn học cổ điển Trung Hoa, đã ảnh hưởng sâu sắc tới tinh thần yêu nước, chẳng những của Hán tộc, mà còn truyền bá sâu rộng tới các dân tộc Á Đông theo Nho giáo.
Là người viết rất nhiều và tác phẩm nào, từ Cửu Ca, Cửu Chương, ThiênVấn..tới Ly Tao..bài nào cũng dượm nồng nhiệt tình khí phách, hiên ngang dũng cãm, thể hiên tính hào hoa phong nhã của một bậc kỳ tài.
Cửu Chương, gồm 9 bài thơ với chung một chủ đề ' buồn-hận', nói lên tâm trạng của một bề tôi trung quân ái quốc, tức Khuất Nguyên, vì can vua mà phải trải qua nổi khốn khổ trong cảnh lưu đày. Riêng ' Cửu Ca và Thiên Vấn', được các nhà nhà biên khảo lịch sử đời sau, đánh giá là tuyệt tác trong nền văn học cổ điển Trung Hoa. Thiên vấn đề cập tới 170 vấn đề, về các hiện tượng có liên quan tới trời đất, xã hội và các sự việc xãy ra hằng ngày. Đây là một sáng tác rất mới mẽ vào thời đó, khi hầu hết các văn nhân thi sĩ chỉ biết khóc gió thương mây. Riêng Cửu Ca là những khúc hát dân gian, với nội dung cúng tế thần thánh nhưng lại chứa đựng một sự tưởng tượng phong phú, được lồng trong những áng văn chương lãng mạn, làm cho các bài ca tế thần thánh khô khan, trở thành vũ điệu ca múa, được mến mộ trong chốn cung đình.
Nhưng tiêu biểu hơn hết trong sự nghiệp văn chương của Khuất Nguyên, vẫn là bài trường phú ' Ly Tao ' thuộc loại phú thơ trữ tình, xuất hiện sớm và có số câu dài nhất lúc đó, ảnh hưởng mạnh mẽ tới các thế hệ sỉ phu về sau.
Ly Tao có nghĩa là xa vua nên buồn. Đây là thi phẩm đầu tay của Khuất Nguyên, được sáng tác khi quân Tần tràn vào Hán Bắc, lúc ông bị bãi chức lưu đầy qua các miền đất, suốt Động Đình Hồ, tới tận hạ lưu Tương Tây thuộc Hồ Nam. Thơ viết theo thể trường phú, có 370 câu, gói trọn nổi niềm bi tráng thương hận, của một nhà ái quốc, trước nạn nước nhưng đành phải trơ mắt gục đầu bất lực. Suốt dòng thơ, Khuất Nguyên dùng văn bút máu lệ, để thể hiện cái lý tưởng cao đẹp, tinh thần yêu nước nồng nàn, qua những ngày tháng đấu tranh không mệt mõi của một sĩ phu trí thức.Toàn bài thơ nồng đượm nhiệt tình, ý tưởng khống đạt cao quý, nói lên cái khí phách của bậc đại nhân quân tử, khiến cho thơ dù đã viết cách đây gần mấy ngàn năm, vẫn có sức thu hút truyền cảm với hậu thế., nhất là đối với người Việt vong quốc ly hương. Trong thơ Ông còn dùng lối nhân cách hóa để tượng trưng vớí các điển tích thần thoại, biểu lộ mối tình cảm chân thành, dành cho Dân-Nước (Vua). Có thể nói được, mỗi chữ trong thơ như một giọt lệ sầu, còn một câu một đoạn, có khác gì dòng máu tươi thay mực viết, diển tả nổi nghẹn uất của trái tim khô, sau bao ngày hoài mơ tuyệt vọng. Tình tiết bi tráng như thế, làm sao không bắt người đọc phải ngẩn ngơ, cảm xúc và rơi những giọt lệ buồn.
Thế Lử, nhà thơ mới nổi tiếng của VN thời tiền chiến, đã cảm xúckhi đọc, nên trìu mến gọi thi phẩm bất hủ của Khuất Nguyên là ' Nàng Ly Tao ' :

' mượn lấy bút NÀNG LY TAO tôi vẽ,
và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca ..'

Do ảnh hưởng to lớn nhử thế, nên suốt dòng lịch sử Trung Hoa, hình ảnh nhà chính trị cũng là một thi hào, đã bàng bạc trong tâm khảm mọi người, mà đồng điệu, đồng tình và gần gũi với ông nhất trong phong cách của người chính nhân quân tử, bậc sĩ phu trí thức, khiến ai cũng cúi đầu ngưởng mộ. Người đó là Văn Thiên Tườn (1236-1282 sau tây lịch ). Ông chẳng những là một nhà thơ lổi lạc, mà còn là chí sĩ yêu nước nồng nàn. Trong triều đình, làm quan tột đỉnh với chức Khu Mật Sứ-Hửu Thừa Tướng vào thời Tống Mạt. Khi quân Mông Cổ xâm lăng, chiếm kinh đô Lâm An (Hàng Châu) của Nam Tống. Ông tự cầm quân, phò vua Tống Đoan Tông chống ngăn giặc. Tại Quảng Đông vào năm 1278 vì thế giặc quá mạnh, nên cả chúa tôi đều bị giặc bắt. Vua bị giết, còn Ông được giải về cầm giam tại Yên Kinh hơn ba năm. Trong tay giặc, người chiến sĩ trí thức, khước từ tất cả lợi danh, phú quý, noi gương người xưa, thà chết sớm mà chết vinh, để không sống lâu lên lão làng nhưng sống để chuốc lấy nhục nhã một đời làm quan-tướng khiếp hèn :
' Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh..'

Tại VN, các gương trung liệt trên, cũng đã được các bậc liệt nử anh hùng, trong dòng sinh mệnh dân tộc Hồng Lạc như Nhị Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Biểu, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Võ Tánh, Ngô Tùng Chu, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương..và gần đây, trong cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản (1955-1975), nhiều tướng lãnh VNCH như Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai..chấp nhận cái chết, để muôn đời sánh vai với tiền nhân, sống vinh trong cõi thênh thang miên trường.
Có thể khẳng định một điều về đạo đức của Khuất Nguyên, trong mấy ngàn năm qua, đã là tấm gương chung để mọi thế hệ cùng soi sáng. Đó là cái tiết tháo của bậc anh hùng, há không phải là những tấm phao tiếp sức cho các sĩ phu mọi thời, từ Chu văn An, Nguyễn Trãi, Phạm Quý Thích, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông..sáng tạo nên những bài thơ hùng hồn bi tráng, kêu gọi toàn dân nổi dậy, chống giặc xâm lăng trong lúc nước nhà bị ngoại bang dày xéo đô hộ, vua quan u tối bất lực, khiến chính trị đảo điên, nhân tâm phân tán chia rẽ, làm sao đủ sức chống chọi với giặc thù ".
Ngoài quan điểm chính trị và thái độ xử thế trên, phần lớn các nhà thơ VN xưa cũng như nay, hay lấy cuộc đời bất hạnh, thân phận éo le của Khuất Nguyên, để gửi gấm tâm sự ngang trái của chính mình. Tiêu biểu hơn hết là thi hào Nguyễn Du, tài hoa nhất trong dòng văn học nước nhà xưa nay chưa ai sánh kịp, nhưng đường công danh thì trôi nổi bềnh bồng bất như ý của một hàng thần lơ láo. Riêng Cao Bá Quát lại càng bi thiết hơn, với kiếp số hùng tài nhưng thân phận bèo bọt, sinh bất trùng thời, cuối cùng bất đắc chí phải làm giặc, để liên lụy tới toàn gia phải bị bêu đầu. Tuy vậy lúc nằm vào máy chém, người sĩ phu trí thức Cao Bá Quát đã noi gương Khuất Nguyên, không hề run sợ :
' Phóng bộ học hành ngâm
Thí thụy Ly Tao ông
ba hồi trống giục mồ cha kiếp
một nhát gươm đưa đ. mẹ đời '
thật là sĩ khí của người quân tử, luôn coi cái chết nhẹ hơn lông hồng, khác biệt một trời với bọn tham quan hàng tướng, khi đắc thời thì la lối khua mồm, lúc giặc mới chỉ vào tới biên quan, đã rủ nhau ù chạy ra ngoại quốc. Nay yên thân phì gia mập mặt, lại tiếp tục đắc thời, không bao giờ biết xấu hổ với thuộc cấp và đồng bào hằng ngày.
Được quý trọng tột cùng, nên Khuất Nguyên chẳng những có một địa vị cao quý trong tâm khảm các bậc trí thức, trong một số lớn thơ vịnh và chính Tùng Thiệu Vương, bậc tài hoa thời nhà Nguyễn, tùng được vua Tự Đức không tiếc lời khi hạ bút khen tặng:
-văn như Siêu Quát, vô Tiền Hán
thi đáo Tùng Tuy, thất Thịnh Đường.'
Ông này đã không tiếc tiền bạc, lập riêng một nhà thờ, để tưởng nhớ Khuất Nguyên cũng như các nhà thơ nổi tiếng của VN.
Ngoài Ly Tao, bài phú Hoài Sa, sáng tác cuối cùng của Khuất Nguyên, tuy lời lẽ không được trau chuốc như bài trên, nhưng cũng được hậu thế đánh giá là tuyệt tác vì lời lẽ ai ốn thảm tuyệt, ai đọc qua cũng không thể ngăn được thương tâm chính mình.

** SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN :
Từ ngày thành lâp cho tới khi rã ngủ ngày 30-4-1975, QLVNCH có hơn 100 tướng lãnh. Nhiều vị đã anh dũng nằm xuống giữa chiến trường như Đổ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên..hoặc bỏ xác trong chốn lao tù cọng sản tận miền biên giới Hoa-Lào-Việt. Nói chung chỉ có một số rất ít, tham sống bỏ binh sĩ thuộc cấp, đeo máy bay Mỹ chạy ra ngoại quốc để chết già chết nhục trong sự quên lãng và cười khinh của miệng đời.
Nhưng may thay, giữa những kẻ hèn hạ cúi mặt ra đi, trong hàng ngủ tướng lãnh Miền Nam, còn có rất nhiều khuông mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác, , nêu tấm gương bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu trí thức Hồng-Lạc và trên hết là cái TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ Huy, Lãnh Đạo : 'Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần - Nhất tướng công thành vạn cốt khô nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành '. Những danh tướng VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai..ngay khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt QLVNCH buông súng, rã ngủ đầu hàng Cọng Sản Đệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh diện cho màu cờ và sắc áo của QLVNCH, mãi mãi trong dòng sử oai hùng Nước Việt.

++ PHẠM VĂN PHÚ :
Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, từng tham gia Mặt Trận Điện Biên Phủ năm 1954. Nguyên Tư Lệnh Quân Đàn II từ 1974-1975. Viết về Tướng Phú, hầu như các sử gia cận đại trong và ngoài nước, phần nào quy trách nhiệm cho ông, trong trận Ban Mê Thuộc thất thủ vào tháng 3-1975. Kế tiếp là cuộc lui quân từ Pleiku về Tuy Hòa, trên Liên Tỉnh Lộ 7-B hoàn toàn thất bại, làm tan vở gần hết lực lượng hùng hậu của Quân Đoàn II. Hậu quả lam hằng trăm ngàn đồng bào vô tội và binh sĩ các cấp đã chết thảm trong khi di tản, vì các cấp chỉ huy cuộc lui quân từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cho tới ngoài mặt trận, quá kém lại chia rẽ đố kỵ, làm mất hết yếu tố thành công, khác xa với cuộc lui quân đêm 20-4-1975 của SD18BB +LD1ND + TK.Long Khánh + TD82BDQ do tướng Lê Minh Đảo đi bộ chỉ huy, trên Liên Tỉnh Lộ 2, lính và dân hầu hết đều được về tới Bà Rịa, kể cả TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế, đoạn hậu trong cuộc lui quân thần tốc này.
Sau này qua các nguồn sử liệu được phổ biến, cũng như lời kể của nhân chứng có mặt trong cuộc lui quân lúc đó và nhất là lời xác nhận của Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, trong hồi ký ' Đôi dòng ghi nhớ ', cho thấy tướng Phú lúc đó tuy mang tiếng là Tư Lệnh Chiến Trường, nhưng lệnh lạc hoàn toàn do các nhân vật chóp bu trong Bộ TTM tại Sài Gòn ban phát, lúc này lúc nọ, không qua tướng Phú, mà tới thẳng các nhân vật thuộc bè phái đang cùng chỉ huy cuộc lui quân.


Tự biết mình là vị tướng trấn giữ biên cương, không làm tròn trach nhiệm trước đồng bào và quân sĩ dưới quyền, tướng Phú đã khẳng khái kết thúc đời mình bằng độc dược ngày 1-5-1975, dù ông có phương tiện để chạy ra ngoại quốc như một vài tướng lãnh khác. Ông chết trước là để tạ tôi với quốc dân và trên hết là chứng tỏ với giặc Cộng, cái uy vũ của người làm tướng Miền Nam, không phải ai cũng hèn hạ như VC từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp..khi sa cơ đã tàn nhẩn bán rẽ đồng đội mình cho địch,, để đổi lấy tiền bạc và mạng sống cá nhân.

++ NGUYỄN KHOA NAM :
Nguyên Thiếu Tướng Tư Lệnh quân đoàn IV tại Cần Thơ. Ông sinh trưởng trong một gia đình danh giá đạo đức tại Thừa Thiên và xuất thân từ Binh chủng Nhảy Dù. Trong cuộc đời binh nghiệp, Ông là một trong những tướng lãnh Miền Nam, cho tới ngày cuối cùng, luôn được tiếng là liêm chính, nghiêm minh và đạo đức.
Ngày 30-4-1975, dù Sài Gòn bị VC tấn công tứ phía nhưng gần hết lãnh thổ Quân Khu IV, quân lực VNCH và các cấp chỉ huy tại các tiểu khu vẫn còn nguyên vẹn và giũ vững tinh thần. Khi Tổng Thống Minh nghe theo sự xúi giục của Nguyễn Hửu Hạnh và đám VC nằm vùng, bắt QLVNCH buông súng đầu hàng. Tướng Nam tuân hành theo lệnh thượng cấp và kỷ luật quân đội nhưng nhất quyết không bỏ chạy cũng chịu nhục trước giặc xâm lăng. Vì vậy ông đã dùng súng tự kết liểu đời mình, ngay trong văn phòng Tư Lệnh quân đoàn tại Cần Thơ, trong sự vô cùng thương tiếc của thuộc cấp và binh sĩ dưới quyền, trong đó có cố Đại Tá Tỉnh trưởng Chương Thiện là Hồ Ngọc Cẩn, cùng binh sĩ, không chịu buông súng đầu hàng.

++LÊ VĂN HƯNG :
Ông sinh năm 1933 tại Hốc Môn, tỉnh Gia Định. Nguyên Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó quân đoàn IV. Là người hùng, khi còn là Tư Lệnh SD5BB, đã cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, lúc còn làm Tỉnh Trưởng Bình Long, đã giữ vửng An Lộc, trong suốt 68 ngày bị 4 SD Bắc Việt vây hảm, trong mùa hè đỏ lửa 1972. Từ năm 1973, Tướng Hưng về làm Tư Lệnh SD21BB, sau đó là Tư Lệnh Phó QDIV.
Ngày 30-4-1975, sau khi Dương Van Minh đầu hàng giặc, Thiếu Tướng Nam tuẩn tiết tại văn phòng tư lệnh. Tướng Hưng về nhà, từ giả thân quyến, bạn bè và binh sĩ dưới quyền, rồi tự sát lúc 8 giờ 30 tối cùng ngày, để mãi mãi cùng với các anh hùng liệt nử, đi vào thanh sử VN muôn đời.

++ LÊ NGUYÊN VỸ :
Nguyên Tư Lệnh SD5BB, một SD dã chiến từ Bắc Việt di cư vào Nam từ năm 1955, trải qua nhiều vị tư lệnh nổi tiếng như Woàng A Sáng, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Hưng và cuối cùng là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ từ 1974 cho tới khi tàn cuộc chiến. SD5BB đã trấn giữ nhiều năm vùng đất, tuy sát nách Sài Gòn nhưng hung hiểm, bao gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long.
Tướng Vỹ đả bảo toàn được lãnh thổ gần như nguyên vẹn, cho tới khi có lệnh đầu hàng. Noi gương tiền nhân bất khuất, trước toàn thể sĩ quan các cấp thuộc Bộ Tư Lệnh SD5BB tại căn cứ Lai Khê - Bình Dương, Tướng Vỹ đã dùng khẩu súng lục Beretta 6,35 ly, từng đeo bên mình nhiều năm, để bắn vào đầu tự sát.

++ TRẦN VĂN HAI :
Chuẩn tướng Trần văn Hai xuất thân khóa 7 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, sinh năm 1926 tại Cần Thơ (tài liệu của Nguyễn Thanh Vân). Ông xuất thân từ Binh chủng Biệt Động Quân và là một trong những người có công lớn, trong việc hoàn thành Trung tâm huấn luyện BDQ. Dục Mỹ năm 1961. Đây là lò luyện thép đúng nghĩa, trong việc đào tạo quân nhân các cấp của binh chủng biệt động, chuyên hành quân rừng núi sình lầy. Trước khi trở thành Tư lệnh SD7BB. Chuẩn tướng Hai, đã giữ chức Chỉ Huy Trưởng BDQ/QLVNCH, góp phần lớn trong việc đánh đuổi cọng sản đệ tam quốc tế, ra khỏi thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, trong trận Tết Mậu Thân 1968.
Theo bước các cấp chỉ huy tại quân đoàn IV anh hùng là Thiếu Tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng..nên ông đã tự sát tại căn cứ Đồng Tâm của BTL.SD7BB vào trưa ngày 30-4-1975. Thi hài ông đã được thuộc cấp, nhân lúc cọng sản đang say men vơ vét chiến lợi phẩm, mang về tận Sài Gòn giao cho gia đình an táng.

Đúng như lời nhận xét thật vô cùng chí lý của Thiếu tướng Mỹ George Wear' khi quân sĩ VNCH được chỉ huy bởi các cấp lãnh đạo cũng như tướng lãnh giỏi, đạo đức, thì Họ chiến đấu xuất sắc như bất kỳ một quân đội của các nước trên thế giới, mà điển hình nhất là trận đánh cuối cùng tháng 4-1975 tại Xuân Lộc-Long Khánh, đã làm cho tập đoàn lãnh đạo cọng sản, tại Bắc Bộ Phủ phải run sợ và la làng, vì bị thương vong và thiệt hại quá to lớn, hơn bất cứ một trận đánh nào đã xảy ra trong chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975).'
Câu nói trên đã được chứng minh một cách trung thực về khả năng tác chiến thần thánh của QLVNCH, trong viêc ngăn chân và tiêu diệt giặc Bắc xâm lăng. Nhưng tiếc thay những bậc sĩ quan các cấp, đạo đức tài giỏi thì bạc mệnh, đa truân cũng như những cấp lãnh đạo anh minh, lại vô quyền bất lực. Tình trạng VNCH như thế làm sao không mất nước vào tạy đệ tam cọng sản quốc tế, y như nước Sở thời Chiến quốc, vua u mê, quần thần xu nịnh ngu dốt, nên cuối cùng bị Tần quốc thôn tính tiêu diệt.

2-VÀI TỤC LỆ TRONG NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ :
Trước khi Khuất Nguyên trầm mình tuẩn tiết trong dòng nước Mịch La, thì người Tàu cũng đã có lễ hội mồng năm tháng năm nhưng ý nghĩa lại hoàn toàn khác biệt với hiện tại. Theo quan niệm cổ của người Hán, mồng năm là một trong ba ngày xấu nhất trong tháng (mồng năm, mười bốn, hăm ba - đi chơi cũng lổ, lọ là đi buôn), nên rất xui xẽo. Ai lỡ có con cái sinh nhằm những ngày đó, thì vô cùng buồn bã, vì nghĩ rằng chúng về sau sẽ phản lại cha mẹ họ hàng.
Nhưng sau khi Khuất Nguyên tuẩn tiết, danh tiếng trung liệt của ông, được loan truyền khắo nước Sở và nhân gian, nên miệng đời lại đổi khác. Do đó ngày mồng năm tháng năm , trở thành đại đại kiết và hạnh phúc.
Vui Tết Đoan Ngọ tuy cùng chung một ý nghĩa nhưng không nơi nào giống nhau. Tại VN trước khi cọng sản quốc tế vào làm cái gọi cách mạng tháng 8 -1945, người dân miền Bắc vui Tết Đoan Ngọ rất trang trọng. Ngoài cổ bàn linh đình để tế lễ thần linh, tại các chùa, đình và tư gia, mọi người còn theo nhiều tập tục cổ truyền, của tổ tiên bao đời truyền lại như tục giết sâu bọ, nhuộm móng tay móng chân, đeo bùa trừ rắn, tắm nước lá mùi, vào núi hái thuốc và đi lễ Tết Thầy.
Riêng tại Trung Hoa và những nước Đông Nam Á có Hoa kiều sinh sống, ngày Tết Đoan Ngọ được tổ chức với nhiều trò vui lạ. Một trong những trò chơi còn giữ tới ngày nay như trò ' Đố Lá ' rất được trai gái ở nông thôn hưởng ứng. Thật ra đây là dịp để trai gái có dịp công khai gặp gở trao đổi, mà không sợ bị gia phong lễ giáo ràng buộchay cấm đốn :
'May thay giải cửu tương phùng,
gặp tuần ' Đố Lá ', thỏa lòng tìm hoa '
(Kiều - Nguyễn Du )
Trong ngày này người Hoa cũng như VN be cây xương Bồ đem về nhà tán nhỏ thành bột, trộn vào rượu để uống trong tết Đoan Ngọ. Cũng lấy các loại Ngãi Cứu bện thành hình thú vật hay trái tim, đeo trong người và treo trước cửa trừ tà :
'giữa trưa ngày Tết, lúccùng vui
rượu mới xương Bồ, uống Tết chơi '
( Nguyễn Trãi)
Nhưng vui hơn hết là cuộc dua ' Bơi Trãi', một loại thuyền nhỏ nhưng dài, gần giống loại ghe Ngo, của người Việt gốc Khmer ở các tỉnh Vĩnh Bình, Ba Xuyên dùng đua trong các dịp Tết. Cuộc đua được tổ chức trong hầu hết các miền đất củ của nước Sở trước kia quanh Động Đình Hồ nhưng qui mô nhất vẫn trên sông Mịch La, ngoại thành Trường Sa, thủ phủ của tỉnh Hồ Nam. Tại đây mọi người đem bánh trái, hoa quả trong đó không bao giờ thiếu bánh Ú gói lá dông, ném xuống sông, hàm ý để tôm cá, thuồng luồng ăn đồ cúng, mà quên ăn xác Khuất Nguyên.

** GIẾT SÂU BỌ TRONG NGÀY MÙNG NĂM THÁNG NĂM BẰNG THỨC ĂN :

Theo quan niệm của người xưa, trong bộ máy tiêu hóa của con người, có rất nhiều sâu bọ ký sinh và vi khuẩn. Đặc biệt mỗi năm, chúng chỉ xuất hiện một lần duy nhất vào ngày mùng năm tháng năm. Đây là cơ hội để con người tiêu diệt chúng bằng cách ' uống rượu nếp , ăn hoa quả ' ngay khi vừa thức giấc. Tục này rất được thịnh hành ở nông thôn miền Bắc và Bắc Trung phần, trước năm 1954.
Miền Nam VN sau năm 1955 có hơn triệu người Bắc di cư, mang theo mỹ tục trên và được bản địa tiếp nhận nồng nhiệt và vui vẽ. Nhưng có điều khác biệt, là rượu nếp của miền Bắc khác hẳn với cơm rượu miền Nam. Đây là hai thức uống hoàn toàn xa lạ, vì rượu nếp miền Bắc nấu bằng gạo lức, còn cơm rượu miền Nam thì làm bằng nếp trắng. Tuy nhiên cả hai thứ đều cùng cho ta cái cảm giác cay cay ngọt ngọt tuy không say khướt nhưng cũng đủ làm cho ai đó ngây ngất tâm hồn. Sau này người dân thành thị dùng các loại rượu Đế, Martel, Cognac..thay thế các thức uống trên, để giết sâu bọ và vi khuẩn trong bộ máy tiêu hóa vào sáng sớm mồng năm tháng năm.

** NHUỘM MÓNG TAY CHÂN VÀ ĐEO BÙA CHO TRẺ CON TRONG NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ :
Trong ngày mồng năm tháng năm, nếu người lớn phải ăn uống để trừ giết sâu bọ , thì trẻ con cũng phải nhuộm móng tay chân, bằng một loại lá nhỏ và dài, có tên 'Lá móng tay ', , để chúng không bị sâu bọ quấy nhiễu, làm hại. Đặc biệt, không được nhuộm ngón tay trỏ, vì nó là Thần Chỉ. Ngoài ra trong ngày Tết Đoan Ngọ, trẻ con được cha mẹ đeo cho một túi bùa may bằng vải ngủ sắc, trong có cục Hồng Hoang trị rắn và các loại trái cây trừ sâu bọ.
Tại các nước VN, Trung Hoa kể cả Ấn Độ và nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á, mọi người đều tin rằng, trong ba trăm sáu mươi lăm ngày, chỉ có ngày mồng năm tháng năm duy nhất ' Rắn và Người ' hòa hợp hòa giải hưu chiến. Ngày đó rắn không cắn người vì trẻ con đều có đeo bùa trừ rắn. Do trên, tục ngữ mới có câu ' Len lén như rắn mồng năm '.
Ấn Độ là quốc gia rộng lớn tại Nam Á, khí hậu nóng ẩm, nên là giang sơn của hơn 400 loài rắn, trong đó có 40 thứ tuyệt độc mà hiện nay nhân loại chỉ mới tìm ra 3 loại huyết thanh chữa trị, nên hằng năm người Ấn chết vì bị rắn cắn rất nhiều. Cũng tại Ấn Độ, vào ngày mồng năm tháng năm đều có mở ngày Hội Rắn tại vùng Battish Shirala, thuộc tiểu bang Maharashtra. Theo một ký giả của tờ Life, có mặt tại chổ viết bài tường thuật, cho biết từ tờ mờ sáng hôm đó, đã có hàng hàng lớp lớp rắn đủ loại, không biết tới từ nơi nào đến, tuyệt độc như rắn đeo kính, rung chuông, hổ mang, mai gầm..cho tới các loại hiền khô như rắn nước, rắn lãi, roi, mây..cũng đều rũ nhau kết hợp phóng về địa điểm hành lễ kể trên.
Hôm đó dân làng từ nam phu lão ấu, trai gái đủ hạng, ai nấy đều mặc đồ mới , kéo tới một ngôi đền cổ, nằm giữa rừng cây cối rậm rạp gọi là Đền Rắn, để hành lễ cầu phước mong được như ý nguyện. Riêng những người bắt rắn chuyên nghiệp đã vào tận rừng sâu, để thỉnh về 30 ngài Cobra, là loại rắn tàn độc khủng khiếp nhất hiện nay, để chủ trì cuộc lễ. Rồi khi vầng thái dương treo đúng đỉnh đầu (Đoan Ngọ), cuộc lễ mới chính thức cử hành. Ba mươi ông bà rắn độc, to và dài hơn 1m, được đặt nằm trên bàn lễ, đầy ứ thức ăn do mọi người dâng cúng như gà, heo, chuột, đậu rang..Mọi người quý cúng đông nghẹt, lẫn lộn với hằng ngàn thứ rắn, khiến cho du khách có mặt trong buổi lễ hôm đó, kể cả người Ấn tại các địa phương khác, cũng phải xanh hồn bạt vía vì sợ bị rắn cắn. nhưng kỳ diệu thay, rắn nào hôm đó cũng hiền khô và đều tỏ ra thân thiện với con người. Đây là sự kỳ diệu của hố công, mà khoa học tới nay vẫn chưa giải thích nổi.
Sau khi cuộc lễ kết thúc tại Đền Rắn, kế tiếp là diễn hành , rước kiệu rắn, với hoa đèn cờ xí rợp trời. Ba chục ông bà rắn cobra được 4 cô gái đồng trinh, thỉnh lên ngự trên 15 chiếc hoa, khiên thẳng tới một bãi đất trống . Tại đây các ngài rắn được thả xuống, rồi từng cặp múa may quay cuồng theo lệnh của các pháp sư Bà La Môn. Đối với dân làng Battish Shirala, ai cũng tin tưởng ngày mùng năm tháng năm, rắn vào nhà nào thì gia chủ sẽ hưởng được những điều lợi phúc, nên họ thi nhau nấu nướng nhiều thức ăn rất ngon để đãi rắn.
Rồi ngày cũng trôi nhanh qua trong sự luyến tiếc của mọi người, khi trời bắt đầu khuất dần sau rặng núi xanh đen trước mặt. Lúc đó, các ngài Cobra được những thợ bắt rắn, ôm lên kiệu hoa và khiên thẳng vào bìa rừng. Lại cúng tế lần chót, trước khi thả các ngài vào rừng sâu hoang dã. Sau đó, người và rắn không còn hòa hợp, hòa giải, hòa bình mà trở mặt cắn giết nhau khi có dịp.

*MỒNG NĂM THÁNG NĂM, LƯU THẦN - NGUYỄN TRIỆU LẠC CÕI THIÊN THAI :
Theo truyền thuyết, Lưu Thần và Nguyễn Triệu sinh vào đời Hán, nhân Tết Đoan Ngọ, cả hai đi hái thuốc trên núi Thiên Thai, tỉnh Triết Giang (Trung Hoa). Không ngờ hai người lại lạc bước tới cõi Đào Nguyên và gặp được hai tiên nữ tên Ngọc Tiên, Chân Tiên kết duyên chồng vợ. Sự tích này, trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tiên sinh có viết :
' xắn tay mở khóa động đào,
rẽ mây trông tõ, lối vào Thiên Thai ..'
Tình duyên đang mặn nồng gắn bó chưa được nữa năm, bổng hai chàng nhớ mẹ cha, làng xóm, nên nằng nặc xin hai vợ tiên giúp trở về thăm cố hương. Vì hiểu thấu thiên cơ, nên hai nàng hết lòng ngăn cản chồng, đồng thời giải thích sự khác biệt giữa trần gian và tiên cảnh, nếu ra đi thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ quay lại được nữa, vì cửa trời không bao giờ mở tới hai lần cho bất cứ một ai. Nhưng tiếng gọi của cố hương và lòng hiếu thảo bừng bừng khắc khoải, khiến cho Lưu-Nguyễn rứt áo, quyết định tạ từ hai nàng, để ra đi.
Nơi chốn cũ, sau bao ngày xa cách không ngờ lại là cảnh vật đổi sao đời, bể dâu trầm thống. Hai người chẳng những đã không gặp được thân quyến của mình vì tất cã đã chết hết, còn hàng xóm thì hoàn toàn xa lạ, nên sinh ra chán nản thất vọng. Bởi thế Lưu-Nguyễn quyết định trở lại cõi Đào Nguyên, để xum họp với vợ tiên. Nhưng dù có la hét réo gọi ngày qua ngày, lối vào Thiên Thai đã bít, chỉ còn âm hưởng của rừng núi muôn trùng. Câu chuyện tình tiết ly kỳ đầy cãm động trên, lần nữa lại trùng họp với Từ Thức, cũng tìm đước lối tới Đào Nguyên.
Trong văn học xưa nay, các văn thi sĩ VN, thường mượn hai điển cố trên, để sáng tác ngâm vịnh. Nhưng kiệt tác nhất vẫn là thi phẩm ' Thiên Thai ' của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939), rất được nhiều người ái mộ và đã phổ biến thành nhạc:
' ..lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi
nửa năm tiên cảnh
một bước trần ai
ước cũ duyên thừa có thế thôi..'

Nhân dịp kỹ niệm Lưu Thần, Nguyễn Triệu và Từ Thức, vào ngày mùng năm tháng năm hằng năm, giới Đông Y Sĩ VN lẫn Trung Hoa, có lệ cúng Tổ ngành Y Dược, củng lễ Tết các vi gia sư. Riêng tại VN, hai Đại Danh Y được nhắc nhớ nhiều nhất, vì đạo đức, phẩm cách và tài trí tuyệt vời : Nam Việt Đại Sư Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

** NAM VIỆT ĐẠI SƯ :
Là chức tước của vua Thành Tổ nhà Minh, ban cho Đại Sư Tuệ Tĩnh , một Thánh Y đời Hậu Trần. Ông họ Nguyễn, biệt hiệu Hồng Nghĩa Đường, sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo tại thôn Nghĩa Phú, làng Thượng Hồng, Huyện Cẫm Giàng, tỉnh Hải Dương. Năm 6 tuổi, mồ côi cha mẹ, được sư cụ chùa Giao Thủy (chùa Keo) ở Bắc Ninh, đem về chủa nuôi dưỡng giáo hóa. Năm Thiên Phượng thứ 10, đời vua Trần Dụ Tông nhà Trần, nhà sư Tuệ Tĩnh đi thi đổ Hoàng Giáp nhưng ông từ khước việc làm quan và vẫn tiếp tục tu hành. Hơn nửa nhìn gương Chu văn An lúc đó, dù là một đại quan quyền cao chức lớn nhưng vẫn bất lực trước nổi hôn vua quan ngu, chỉ biết tham lam ích kỷ cá nhân, mà không bao giờ để ý tới cảnh nước non nguy khốn, dân chúng đang lầm than đói lạnh khắp nơi.
Trở về chốn Thiền Môn, tiếp tục tu trì Phật giới, đồng thời khổ công miệt mài nghiên cứu y học, qua các tài liệu sách vở của Đại Danh Y Khổng Lộ thời trước. Nhờ đó, chẳng bao lâu ông đã trở thành một đại danh y của VN. Chính ông là người đầu tiên đã tìm tòi sáng chế ra các vị thuốc Nam Y , dần dần thay thế các vị thuốc Bắc thời đó rất khan hiếm, bởi Đại Việt đang bị giặc Minh dầy xéo, do Trần Thiểm Bình vì cá nhân, mà rước voi Tàu về tàn phá quê hương VN, lúc đó là thời nhà Hồ.
Thuốc Nam do Đại Sư Tuệ Tĩnh bào chế, không thua kém gì thuốc Bắc. Để giúp đở cho đồng bào trong nước có phương tiện cứu chửa bệnh tật và các thương tích do chiến tranh gây ra, Đại Sư đã khuếch trương được 24 cơ sở y tế từ thiện, với mục đích khám bệnh, phát thuốc miễn thi, tại 24 ngôi chùa trên đất Bắc, mà di tích lịch sử tới nay vẫn còn tại Yên Trang Tự, thuộc tỉnh Hải Dương. Ngoài ra Thánh Y cũng lưu lại hậu thế rất nhiều sách về Y Dược Nam Phương như Hồng Nghĩa Giác Thế Y Thư, Nam Dược Thần Hiệu..
Theo sử liệu, Tuệ Tĩnh Đại Sư bị giặc Minh bắt đem về Yên Kinh, nhưng nhở tinh thông y dược, nên ông đã cứu sống hoàng hậu của Minh Thành Tổ, nên được phong chức Nam Việt Đại Sư và giữ lại trên đất Tàu.

**THẦN Y HÃI THƯỢNG LÃN ÔNG :
Sinh trưởng trong một gia đình thế gia vọng tộc, cũng là một đại quan thời vua Lê-Chúa Trịnh. Tên thật là Lê Hũu Trác, sinh ngày 17-11-1720 tại Đường Hào, Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương. Vốn là người tài cao học rộng, có chí kinh bang tế thế nên luôn mang hoài bảo dấn thân giúp dân cứu nược. Nhưng ông kịp nhìn lại xã hội hư nát dưới thời vua Lê chỉ có hư vị, còn quyền bính thật sự đều ở trong tay dòng họ Trịnh. Cả vua chúa lúc đó đều sống trong cảnh xa hoa, kinh thành loạn lạc với đám kiêu binh Thanh-Nghệ, trong lúc dân chúng cả nước sống cực khổ lầm than đói lạnh, bởi sưu cao thế nặng và chiến tranh triền miên với Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vì thế Hãi Thượng Lãn Ông quyết tâm từ bỏ mộng công hầu, chức quyền tập ấm, vinh hoa phú quý của gia đình, lui về ở ẩn tại quê ngoại Hương Sơn - Hà Tĩnh, là chốn sàng giã ruộng đồng, theo đuổi nghề thầy thuốc, quyết lấy sở học, noi gương Thánh Y Tuệ Tĩnh đời trước, để cứu người.
Sự nghiệp vĩ đại của tiên sinh, hiện được hậu thế biết tới qua bộ sách Nam Dược : Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh . Đây là một công trình nghiên cứu y học, dựa theo kinh nghiệm thành tựu của nghề thuốc trong cũng như ngoài nước. Sách được Lãn Ông biên soạn theo phương pháp Khoa Học Thực Nghiệm, qua thực hành suốt 44 năm hành y, gồm 28 tập, 66 quyển. Toàn bộ sách bao gồm đầy đũ, từ bào chế thuốc, sao tẳm cũng như cách chữa trị các bệnh nội ngoại khoa, các bệnh thiên thời truyền nhiểm như bệnh đậu, sởi và độc đáo nhất vào thời đó, là phương pháp dưỡng sinh phòng bệnh.
Ngoài danh hiệu Đại Danh Y VN, Hãi Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, còn là một nhà thơ cổ điển lớn, trên thi đàn VN vào thế kỷ XVIII. Thơ ông luôn đượm màu đạo giáo, mang sắc thái của một bậc hiền triết Đông Phương, đáng để hậu thế VN hôm nay, cũng đang như thời trước, sống trong cảnh nước nhục, dân đau vì sự độc tài khủng bố dưới gót sắt đô hộ của thực dân đỏ.:
' công danh trước mắt trôi như nước
nhân nghĩa trong lòng, chẳng đối phương ..'
Do công đức vô lượng trên, nên VN đã chọn Thánh Tăng Tuệ Tĩnh và Đại Danh Y Lê Hữu Trác, tức Hãi Thượng Lãn Ông, làm Thánh Tổ ngành Nam Dược. Thất xứng đáng và vô cùng trân trọng.

Trời tháng năm ở đâu cũng oi bức dù thỉnh thoảng hay có nhửng trận mưa rào bất chợt. Đối với người Việt trong cũng như ngoài nước, suốt ba chục năm qua, lại càng nôn nóng vì nổi nhục nước dân đau. Bởi thế đâu có mấy ai, ngoài tầng lớp thượng lưu đỏ hiện nay, còn tha thiết vui cảnh tết nhất lễ hội. Đây cũng là niềm đau nhưc nhối của kiếp người hèn nghèo đói lạnh, vì hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, mà phải lãng quên những phong tục tập quán tốt đẹp của tổ tiên ngàn đời lưu lại.
Đời mà đến thế thì thôi, nên chỉ còn biết chập chờn trong cơn say tĩnh để mà vui. Bổng dưng nghe như có tiếng một con chim Đổ Quyên lạc bầy, đang khắc khoải thét gào gọi đàn, giữa canh trường mông mênh thảm đạm. Tiếng chim quá buồn, khiến hồn cô lữ nới quê người, cũng trùng trùng nổi sầu vong quốc.
Còn đâu những ngày quê cũ, tháng năm đong đậu náu chè và những chiếc bánh ú tro thời tuổi học. -/-

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm
-Phong Tục của Phan Kế Bính.
-Tết và Lễ Hội của Toan Ánh
-Thiên Hùng Ca QLVNCH của Pham Phong Dinh
-Trung Hoa gấm nhung của Thành Đăng Khánh
-Du lịch Trung Hoa của Hứa Hoành
- sách báo PNDD, LV, HV..

Xóm Cồn - tháng 6/2005
HỒ ĐINH

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bốn người được báo cáo đã bị giết chết hôm Thứ Năm sau một vụ cảnh sát rượt đuổi qua nhiều quận đã kết thúc trong trận đấu súng trên đường Miramar Parkway theo sau một tên cướp có vũ khí tại Coral Gables, tiểu bang Florida.
Mỗi năm lên tuổi già đi, tưởng đâu đã được an nhàn, nào ngờ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tối mắt đấu tranh để tồn tại vì các chứng nan y: Suy thoái tư tưởng; Đạo đức xuống cấp; Tham nhũng; và, Lợi ích nhóm trong trong cán bộ,đảng viên.
Bản thông báo của cảnh sát đưa ra hôm Thứ Năm ngày 5 tháng 12/2019, cho biết cô bé mất tích tên Lara Nguyen, 12 tuổi, cư dân thị trấn Menda. Lần cuối cô bé được nhìn thấy là tại nhà cô bé này ở đường Coppice Street, khoảng 8 giờ sáng hôm Thứ Tư ngày 4 tháng 12/2019.
Sài Gòn: Trong 11 tháng kiều hối đạt 4,3 tỷ USD, dự kiến cả năm 2019 dự kiến 5,3 tỷ USD, tăng trên 9% so với năm 2018. Kiều hối về đã giúp sản xuất kinh doanh, giải quyết khó khăn đời sống người thân, giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho kinh tế Tp SG phát triển.
Do dự đoán thời tiết sẽ có 40-50% cơ hội mưa rào vào Thứ Bảy tới, 7 tháng 12 - ngày sự kiện ‘Winter in the Grove’, Thành phố sẽ dời sự kiện này đến ngày thứ Năm tuần sau, vào ngày 12 tháng 12, và chương trình sẽ bắt đầu lúc 5:00 giờ chiều đến 8:00 giờ tối
Tại nhà hàng Diamond 3, Westminster, Nam California, Tối thứ Sáu, ngày 29 tháng 11 năm 2019, Hội Đồng Hương Quảng Nam – Đà Nẵng (QNĐN) đã tổ chức buổi tiệc tri ân các mạnh thường quân và các ân nhân đã ïđóng góp cho chương trình cứu trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa Quảng Nam Đà Nẵng.
Hôm biểu tình 17/11, lãnh tụ trẻ Joshua Wong hô lớn khẩu hiệu "Hồng-kông là Bá-linh mới !" trước đông đảo dân Hồng-kông tụ tập tại Công trường Edimbourg trong khu phố doanh thương.
Chính phủ Trump đang thắt chặt các đòi hỏi làm việc đối với một số người nhận phiếu thực phẩm, một sự thay đổi dự kiến sẽ loại bỏ các lợi ích của Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung (SNAP) cho 688.000 người lớn.
Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Tư đã đột ngột bãi bỏ cuộc họp báo đã được lên lịch trình để kết thúc chuyến đi đầy tranh cãi tới Anh cho cuộc họp năm thứ 70 của Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương gọi tắt là NATO.
Có 422.9 triệu khẩu súng đang lưu hành, khoảng 1.2 khẩu cho một người Mỹ, và 8.1 tỉ dây đạn được bán vào năm ngoái, chứng tỏ súng là phổ biến tại Mỹ, theo National Shooting Sports Foundation cho biết.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.