Sự ra đi của Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II là cái chết mà con người ai cũng phải trải qua. Có lẽ biết giờ Chúa gọi đã gần nên ngài bình thản chờ đợi - như lời thánh ca: "Khi Chúa thương gọi tôi về, lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ ..." - trong căn phòng mà ngài đã sống ở đó hơn 26 năm, từ ngày lên ngôi vào tháng 10 năm 1978.
Và rồi giờ Chúa gọi ngài đã đến: 9 giờ 37 phút tối, giờ Rôma, ngày thứ Bảy 2 tháng 4, 2005.
Sinh ngày 18 tháng 5, 1920 tại Wadowice, một làng nhỏ ở Ba Lan. Mồ côi mẹ năm 9 tuổi và anh chị em của ngài có người chết lúc còn thơ. Tuổi thanh niên làm nhân chứng đất nước Ba Lan bị Đức Quốc Xã xâm chiếm, nên ngài phải "tu chui" trong một đại chủng viện bí mật ở Kraków và được thụ phong linh mục ngày 1 tháng 11, 1946.
Sau đó ngài đi coi xứ, dạy học, viết văn, soạn kịch, làm thơ, dạy triết học tại Đại Học Lublin, rồi được phong giám mục, ngài đã có nhiều đóng góp cho Công Đồng Vatican II trong việc canh tân giáo hội vào đầu thập niên 1960. Năm 1964 ngài được cử làm tổng giám mục địa phận Kraków, năm 1967 được phong tước hồng y và là vị hồng y trẻ nhất, mới 47 tuổi, của giáo hội công giáo lúc bấy giờ.
Tuy sống trong một nước cộng sản nhưng từ khi làm giám mục ngài đã có dịp đi thăm kiều dân Ba Lan ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có những cộng đồng người Ba Lan tại Hoa Kỳ. Tiếp tục sứ mạng tông truyền, từ khi lên ngôi, Gioan-Phalô II đã trở thành vị giáo hoàng du hành nhiều nhất. Ngài đã đến mọi châu lục, từ châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đến châu Á để thăm viếng con chiên, gặp gỡ hàng giáo phẩm địa phương tại trên một trăm quốc gia. Bằng những chuyến tông du của ngài, giáo hội công giáo với hơn một tỉ tín hữu đã mang một khuôn mặt mới, một giáo hội thực sự vào đời, với vị chủ chăn luôn tìm đến với con chiên và nhân loại.
Gioan-Phaolô II đã là biểu hiệu của hòa giải, sứ giả của hòa bình khi ngài mở rộng tấm lòng tìm đến với những tôn giáo khác. Ngài đi thăm Đất Thánh Jerusalem, cầu nguyện tại Bức Tường phía Tây, đã viếng đền thờ hồi giáo ở Syria. Ngài cũng đã mời những lãnh đạo tôn giáo hoàn cầu đến Assisi, Ý quốc cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Ngài đã thăm trại tập trung Auschwitz, xin lỗi dân Do Thái về việc giáo hoàng tiền nhiệm đã không lên tiếng về những vụ thảm sát người trong các trại tập trung.
Mọi người đều đồng ý rằng Gioan-Phaolô II đã giúp thăng tiến nhân quyền, tự do dân chủ trên thế giới, góp phần không nhỏ đưa đến việc suy tàn của chủ nghĩa cộng sản ở quê hương Ba Lan cội nguồn của ngài, ở Đông Âu và Liên Bang Sô Viết. Nhưng ngài cũng lên án xã hội tư bản có tự do nhưng lại quá đam mê hưởng thụ vật chất.
Về luân lý và đạo đức, ngài đã khẳng định rõ ràng là sự sống con người phải được bảo vệ và tôn trọng: giáo hội lên án việc phá thai, ngừa thai nhân tạo và án tử hình. Về xã hội giáo hội phản bác việc hôn nhân đồng tính, không cho phép nữ giới làm linh mục và không cho phép linh mục được lập gia đình. Những điều này có thể làm cho một số tín hữu phương Tây xa rời giáo hội.
Là một tín hữu công giáo, tôi chờ đợi giờ Chúa gọi ngài với hồi tưởng về hồng ân đã được diện kiến ngài đến 3 lần. Lần đầu tiên ở xứ Togo, châu Phi khi tôi đang công tác và hai lần sau tại Quảng Trường Thánh Phêrô và trong đền thánh Phêrô ở Rôma.
Năm 1987 tôi đi công tác Thái Lan, đến bộ nội vụ làm giấy tờ thì có quen với một sĩ quan người Thái. Khi biết tôi là người công giáo, anh tặng cho tấm hình chụp ngài đến thăm trại tị nạn Panat Nikom và nói rằng tuy theo đạo Phật nhưng anh rất ngưỡng phục Giáo Hoàng Gioan-Phalô II.
Nhưng tôi nhớ nhất khi vừa có tin hồng y Karol Jozef Wojtyla được bầu làm giáo hoàng thì một bạn gốc Ý ở chung ký túc xá từ trên lầu chạy xuống dưới nhà, khuôn mặt buồn như muốn khóc, la to: "He's not Italian. He's not Italian". Chúng tôi liền tụ tập bên T.V. theo dõi thông tin. Khi ngài xuất hiện bên cửa sổ và được giới thiệu là một giáo hoàng gốc Ba Lan, tôi đã rơi nước mắt. Một giáo hoàng từng sống với cộng sản sẽ hiểu được tình cảnh của con chiên dưới chế độ cộng sản, trong đó có người công giáo Việt Nam.
Có phải vì thế mà đối với giáo hội Việt Nam, một giáo hội với khoảng 10 triệu tín hữu, lớn thứ nhì ở châu Á, sau Philippines, ngài có những quan tâm đặc biệt. Ngài từng có một bí thư là đức ông người Việt, ngài đã phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam, trong những chuyến tông du châu Á ngài đã đến thăm người tị nạn tạm trú ở Philippines và Thái Lan. Những năm gần đây ngài thường gửi một phái đoàn ngoại giao tòa thánh đến Việt Nam để thảo luận về quan hệ và ngài rất mong được đến thăm đoàn chiên Việt của ngài.
Nhưng ý Chúa đã không định cho ngài thực hiện được những điều đó.
Và rồi giờ Chúa gọi ngài đã đến: 9 giờ 37 phút tối, giờ Rôma, ngày thứ Bảy 2 tháng 4, 2005.
Sinh ngày 18 tháng 5, 1920 tại Wadowice, một làng nhỏ ở Ba Lan. Mồ côi mẹ năm 9 tuổi và anh chị em của ngài có người chết lúc còn thơ. Tuổi thanh niên làm nhân chứng đất nước Ba Lan bị Đức Quốc Xã xâm chiếm, nên ngài phải "tu chui" trong một đại chủng viện bí mật ở Kraków và được thụ phong linh mục ngày 1 tháng 11, 1946.
Sau đó ngài đi coi xứ, dạy học, viết văn, soạn kịch, làm thơ, dạy triết học tại Đại Học Lublin, rồi được phong giám mục, ngài đã có nhiều đóng góp cho Công Đồng Vatican II trong việc canh tân giáo hội vào đầu thập niên 1960. Năm 1964 ngài được cử làm tổng giám mục địa phận Kraków, năm 1967 được phong tước hồng y và là vị hồng y trẻ nhất, mới 47 tuổi, của giáo hội công giáo lúc bấy giờ.
Tuy sống trong một nước cộng sản nhưng từ khi làm giám mục ngài đã có dịp đi thăm kiều dân Ba Lan ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có những cộng đồng người Ba Lan tại Hoa Kỳ. Tiếp tục sứ mạng tông truyền, từ khi lên ngôi, Gioan-Phalô II đã trở thành vị giáo hoàng du hành nhiều nhất. Ngài đã đến mọi châu lục, từ châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đến châu Á để thăm viếng con chiên, gặp gỡ hàng giáo phẩm địa phương tại trên một trăm quốc gia. Bằng những chuyến tông du của ngài, giáo hội công giáo với hơn một tỉ tín hữu đã mang một khuôn mặt mới, một giáo hội thực sự vào đời, với vị chủ chăn luôn tìm đến với con chiên và nhân loại.
Gioan-Phaolô II đã là biểu hiệu của hòa giải, sứ giả của hòa bình khi ngài mở rộng tấm lòng tìm đến với những tôn giáo khác. Ngài đi thăm Đất Thánh Jerusalem, cầu nguyện tại Bức Tường phía Tây, đã viếng đền thờ hồi giáo ở Syria. Ngài cũng đã mời những lãnh đạo tôn giáo hoàn cầu đến Assisi, Ý quốc cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Ngài đã thăm trại tập trung Auschwitz, xin lỗi dân Do Thái về việc giáo hoàng tiền nhiệm đã không lên tiếng về những vụ thảm sát người trong các trại tập trung.
Mọi người đều đồng ý rằng Gioan-Phaolô II đã giúp thăng tiến nhân quyền, tự do dân chủ trên thế giới, góp phần không nhỏ đưa đến việc suy tàn của chủ nghĩa cộng sản ở quê hương Ba Lan cội nguồn của ngài, ở Đông Âu và Liên Bang Sô Viết. Nhưng ngài cũng lên án xã hội tư bản có tự do nhưng lại quá đam mê hưởng thụ vật chất.
Về luân lý và đạo đức, ngài đã khẳng định rõ ràng là sự sống con người phải được bảo vệ và tôn trọng: giáo hội lên án việc phá thai, ngừa thai nhân tạo và án tử hình. Về xã hội giáo hội phản bác việc hôn nhân đồng tính, không cho phép nữ giới làm linh mục và không cho phép linh mục được lập gia đình. Những điều này có thể làm cho một số tín hữu phương Tây xa rời giáo hội.
Là một tín hữu công giáo, tôi chờ đợi giờ Chúa gọi ngài với hồi tưởng về hồng ân đã được diện kiến ngài đến 3 lần. Lần đầu tiên ở xứ Togo, châu Phi khi tôi đang công tác và hai lần sau tại Quảng Trường Thánh Phêrô và trong đền thánh Phêrô ở Rôma.
Năm 1987 tôi đi công tác Thái Lan, đến bộ nội vụ làm giấy tờ thì có quen với một sĩ quan người Thái. Khi biết tôi là người công giáo, anh tặng cho tấm hình chụp ngài đến thăm trại tị nạn Panat Nikom và nói rằng tuy theo đạo Phật nhưng anh rất ngưỡng phục Giáo Hoàng Gioan-Phalô II.
Nhưng tôi nhớ nhất khi vừa có tin hồng y Karol Jozef Wojtyla được bầu làm giáo hoàng thì một bạn gốc Ý ở chung ký túc xá từ trên lầu chạy xuống dưới nhà, khuôn mặt buồn như muốn khóc, la to: "He's not Italian. He's not Italian". Chúng tôi liền tụ tập bên T.V. theo dõi thông tin. Khi ngài xuất hiện bên cửa sổ và được giới thiệu là một giáo hoàng gốc Ba Lan, tôi đã rơi nước mắt. Một giáo hoàng từng sống với cộng sản sẽ hiểu được tình cảnh của con chiên dưới chế độ cộng sản, trong đó có người công giáo Việt Nam.
Có phải vì thế mà đối với giáo hội Việt Nam, một giáo hội với khoảng 10 triệu tín hữu, lớn thứ nhì ở châu Á, sau Philippines, ngài có những quan tâm đặc biệt. Ngài từng có một bí thư là đức ông người Việt, ngài đã phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam, trong những chuyến tông du châu Á ngài đã đến thăm người tị nạn tạm trú ở Philippines và Thái Lan. Những năm gần đây ngài thường gửi một phái đoàn ngoại giao tòa thánh đến Việt Nam để thảo luận về quan hệ và ngài rất mong được đến thăm đoàn chiên Việt của ngài.
Nhưng ý Chúa đã không định cho ngài thực hiện được những điều đó.
Gửi ý kiến của bạn