Chính đảng là từ rút gọn của mấy chữ đảng phái chính trị. Tôi không đi vào những lý thuyết chính trị đã nhàm chán mà chỉ nói đến một nét đơn giản nhất. Bản chất của chính đảng là phải theo kịp với tư duy của thời đại, thích ứng với những chuyển biến trong suy nghĩ của đa số cử tri. Tôi nêu vấn đề này không phải chỉ nhìn đến cuộc tranh cử năm 2000 ở Mỹ, mà thật ra còn nghĩ đến các đảng phái nói chung, kể cả đảng Cộng sản đang cầm quyền ở Việt Nam. Đảng Cộng sản không phải là một chính đảng, nó chỉ là một đảng cách mạng, khi nắm được chính quyền rồi nó vẫn hoàn toàn giữ nguyên vẹn bản chất và tổ chức của một đảng cách mạng vì thế nó chỉ có thể ngồi trên chính quyền bằng một chế độ cảnh sát trị. Từ đảng cộng sản, tôi nghĩ đến những đảng phái quốc gia Việt Nam và cả những đoàn thể của các cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay, đang có xu thế đấu tranh chính trị thay vì đấu trang vũ trang như thời còn làm cách mạng.
Trong mùa tranh cử ở Mỹ năm nay đã có một sự chuyển biến rõ rệt trong hai đảng lớn có truyền thống lâu đời thay nhau nắm giữ Bạch Cung. Đảng Dân Chủ ở phía tả đã đi lần về phía giữa để nắm lấy giới tư sản trung lưu, ve vãn cả những giới đại tư bản. Đảng Cộng Hòa từ phía hữu cũng đi về phía giữa để mua chuộc giới công nhân nghèo và những sắc dân thiểu số. Thật ra cách mô tả như vậy cũng quá đơn giản, nó chỉ cho thấy một khái niệm về khuynh hướng đấu tranh chính trị. Vấn đề thực sự phức tạp hơn nhiều bởi vì không thể mô tả cử tri một cách đơn thuần gồm những người giầu, người nghèo hay người trung lưu. Nếu cả hai đảng cùng đi vào giữa, đảng nào sẽ chiếm đa số" Câu hỏi đó thật ra cũng không quan trọng lắm, vì hiển nhiên phải có một đảng thắng, nhưng dù ông Gore hay ông Bush ngồi vào Bạch Cung, dù Dân Chủ hay Cộng Hòa nắm được đa số ở Quốc Hội, cái đa số của họ đạt được cũng chỉ nhất thời, và căn cứ theo tình hình lúc này, đa số đó cũng chỉ khít khao với thiểu số. Tại sao không đảng nào tạo được một đa số cốt cán, vững mạnh, tạo truyền thống lâu dài trung thành với đảng"
Câu trả lời là thời đại cũ đã qua rồi, nước Mỹ đang trải qua một biến chuyển ngoạn mục. Những phát triển về kỹ thuật, kinh tế và xã hội đã làm thay đổi nước này mau lẹ hơn cả sự suy nghĩ của các chính trị gia. Người dân Mỹ ngày nay không thích chính trị, họ nghi kỵ những tranh chấp chính đảng, họ cũng dè dặt cả với các chính quyền, họ chỉ tin những gì chính quyền trước mắt đã làm cho họ thấy. Trong lịch sử hai chính đảng Cộng Hòa và Dân chủ đã thay nhau cầm vận mệnh nước Mỹ. Thời cận đại, cuộc khủng hoảng kinh tế đầu thập niên 30 đã đưa ông Franklin D. Roosevelt của đảng Dân Chủ vào ngồi ở Bạch Cung. Năm 1936, chương trình kinh tế mới của ông thành công, Roosevelt lại trúng cử Tổng Thống nhiệm kỳ II. Đến năm 1940, rồi đến năm 1944 vì cuộc thế giới đại chiến, Roosevelt tiếp tục được bầu làm Tổng Thống. Năm 1945 Roosevelt bị bệnh qua đời, Phó Tổng Thống Truman lên cầm quyền. Những việc đó mọi người đã biết, chỉ có một nhận xét nhỏ là sau Thế chiến, ít có đảng nào giữ Bạch Cung lâu hơn hai nhiệm kỳ, trong khi đa số Quốc Hội từ hơn chục năm nay vẫn là tỷ lệ khít khao. Đó là vì không có biến cố nào lớn như đại chiến hay khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng làm chất xúc tác để tập hợp quần chúng về một mối.
Đại đa số cử tri vẫn là những người Mỹ da trắng và thành phần này có biến đổi đáng chú ý. Họ là những người đi làm, chưa quá già, trung niên và cả giới trẻ, tổng số ước lượng khoảng 100 triệu người. Phần lớn đã học Trung học, chỉ có một phần tư học đến Đại học nhưng kiến thức họ mở rộng hơn trước rất nhiều nhờ sự phổ biến thông tin thời đại mới, lợi tức gia đình bình quân 42,000 đô/năm. Có thể gọi đó là giới trung lưu và là khối cử tri đông đảo nhất của năm nay. Họ không kỳ thị mầu da hay chủ trương da trắng là siêu việt, hay có tư tưởng cực đoan nào khác. Phương châm của họ chỉ là làm việc và làm việc cật lực, có tinh thần trách nhiệm, đòi hỏi được đền bù xứng đáng, sẵn sàng đóng góp trả lại. Khẩu hiệu của họ là cơ hội đồng đều, công bằng xã hội. Một khối cử tri khác có đến 35 triệu người có học hơn đã bước vào năm 2000 mà không có liên kết với một đảng phái nào. Người ta gọi họ là những “công nhân mắc dây” (wired workers). Trong 30 năm qua số người Mỹ có 4 năm đại học đã tăng gấp đôi đến 28% dân số. Trong 20 năm qua, số gia đình Mỹ có lợi tức trên 100,000 đô-la đã từ 2 triệu lên đến 10 triệu.
Cố nhiên tất cả những số cử tri nói trên không nhắm mắt nghe lệnh đảng nào, một số có ghi danh hay có cảm tình với một đảng nhưng không có gì bắt buộc họ phải bỏ thăm cho ông Bush, ông Gore hay một ứng viên nào khác. Họ bỏ thăm theo sự lựa chọn của họ và sự lựa chọn đó bắt nguồn từ trạng thái hiện thực của cuộc sống và những thông tin họ thu thập được. Muốn có đa số ủng hộ, chính đảng phải nhìn vào sự biến đổi trong những thành phần cử tri lớn như vậy để dọn mình thích ứng. Đảng nào không cập nhật hóa được với sự biến chuyển mau lẹ, không bứt ra khỏi được những tư tưởng lỗi thời, thâm niên cố đế chỉ rước lấy thất bại.