"Ngày ở đây cơm áo có thừa
Nhưng tình người rồi cũng đong đưa
Đêm về nghe lòng mình than thở
Giữa bức tường câm trong tiếng mưa".
(Thơ Nguyễn Tư)
Tôi xin mượn những vần thơ của thi sĩ Nguyễn Tư để mở đầu cho bài viết về
"Người Việt trên đất Úc" của báo Sàigòn Times.
Thực ra, với chủ đề quá rộng lớn này: vài trang giấy nhỏ nhoi, không thể nào
diễn tả được tâm trạng, của đa số người Việt trên đất Úc nói riêng, trên toàn
thế giới nói chung. Nhất là, theo giòng thời gian Việt kiều tại Úc, có thể tạm
chia làm 3 thành phần chính:
1. Giai đoạn tiền tỵ nạn: định cư trước 75.
2. Giai đoạn tỵ nạn & đoàn tụ: định cư sau 75.
3. Thế hệ thứ hai: sinh ra & trưởng thành tại Úc.
Lẽ dĩ nhiên, trong phạm vi cá nhân: chúng tôi chỉ mạn phép có một vài ý kiến
cá nhân về giai đoạn thứ hai mà thôi. Đã 18 năm trôi qua, như một giấc chiêm
bao! Phải như một giấc mơ. Tôi tưởng mình đã chết. Nhưng không, tôi vẫn sống.
"Anh phải sống".
Một chiều mưa giăng giăng, ngày 30.05.82 tại bến phà Vàm Cống! Vâng, khởi đầu
từ đó.
Sau khi phà cập bến vào bờ, tất cả chúng tôi 55 người đi ngược ra sau phà,
xuống "Taxi" (ghe nhỏ) khoảng 4, 5 chiếc để từ đó chèo ra cồn cát đâu đó nơi
"cá lớn" đang đợi sẵn. Suốt đêm trên "cá lớn": một chiếc ghe 10,5m x 2 x 1,5m
trang bị duy nhất một máy F 10, chúng tôi đổ ra cửa biển sáng hôm sau 31/5/82.
Sau khi rời cửa biển độ nửa ngày thì ghe chúng tôi bị chận lại bởi đoàn tàu
Quốc Doanh Phú Khánh 2, 3 chiếc. Lúc ấy vào khoảng xế trưa ngày 31/5/82.
May mắn thay, họ chỉ đường cho chúng tôi đi tiếp! Và gửi một cậu thiếu niên 15
tuổi tên Quán lên ghe chúng tôi. Lúc đó vào khoảng xế chiều 31/5/82. (Em Quán
sau này định cư tại Úc). Lênh đênh trên biển vài giờ nữa, ghe chúng tôi vừa
qua khỏi Côn Sơn thì lọt vào vùng xoáy nước trôn ốc, và cứ thế chiếc ghe
xoay tròn chờ... phép nhiệm màu! Cầu nguyện, tiếng đọc kinh lâm râm (đa số
người trên ghe theo THiên Chúa giáo).
Chợt tiếng reo của anh tài công: "Có tàu đến, bà con ơi". Một vùng ánh sáng,
giữa đêm tối đen đang tiến dần dần về phía ghe chúng tôi. Càng đến gần, con
thuyền chúng tôi càng bị sóng mạnh chao đảo dữ dội.
Được đứng trước mũi ghe, nên tôi nhận rõ toàn thân chiếc tàu khổng lồ: sơn đỏ
với hàng chữ rất lớn "AMAZON". Chúng tôi vừa mừng vừa sợ... tàu Liên Xô!
Tôi bàn với bác sĩ Chung, vị bác sĩ quân y của một liên đoàn Biệt Động Quân,
hiện nay đang ở Cali: không phải tàu Liên Xô đâu, có lẽ một quốc gia Nam Mỹ
nào đó (tôi nghĩ đến sông Amazon ở Nam Mỹ).
Sau một vài câu trao đổi với người trên tàu bằng Pháp ngữ, Anh ngữ của bác sĩ
Chung, chúng tôi toàn bộ 56 người được lưới lên tàu bằng hai đợt. Sau khi đã
kiểm đủ người trên tàu, những vòi rồng và máy ảnh (Flash) nhắm chiếc ghe chúng
tôi... phun nước và... nhận chìm. Sau này vị thuyền trưởng nói cho chúng tôi
biết đó là luật hàng hải, thấy tàu chìm phải vớt.
Vị thuyền trưởng tập trung chúng tôi cùng 18 thủy thủ, 6 sĩ quan vào phòng hội
của tàu. Lúc đó, tôi mới để mắt vào sơ đồ chiếc AMAZON, mang quốc tịch Bỉ,
trọng tải 480,000 tấn. Vâng, gần nửa triệu tấn. Đây là chiếc tàu lớn nhất mà
tôi thấy từ trước đến nay. Và cũng là một trong những chiếc tàu lớn nhất thế
giới. Tàu trên đường từ Nam Hàn về Thái Lan, thấy chúng tôi gặp nạn nên cứu.
Qua khung cửa kính của tàu, vị thuyền trưởng chỉ cho chúng tôi thấy đoàn ghe 3
chiếc "Les Pitates" hải tặc của Thái chỉ cách chúng tôi không xa. Hú hồn! Nếu
không được cứu chắc chắn chúng tôi đã làm mồi cho hải tặc rồi!
Tàu chạy thêm một hôm nữa, chúng tôi vào một hải cảng miền Nam Thái Lan để bốc
dỡ hàng hóa; bột khoai mì. Suốt một tuần lễ sau đó chúng tôi ở trên tàu để chờ
vào đất Thái, sau đó chúng tôi được vào trại Transit ở Panat Nikhom. Ở Thái
đúng một tháng 10 ngày. Chúng tôi (trừ mấy người có trực hệ ở Úc, Mỹ, Canada)
đã được đến Bruxelles, thủ đô Bỉ quốc. Từ Amsterdam, máy bay bay ngang cánh
đồng hoa Tulip đủ màu sắc rất đẹp.
Thế là tôi chính thức được định cư tại Bỉ. Bỏ lại sau lưng gia đình, bạn bè,
kỷ niệm; bỏ lại giòng Cửu Long kỷ niệm đã đưa tôi về miền tự do. Để giờ này,
tôi lại "khóc một giòng sông", đã chôn vùi bao người dân Việt trong trận lụt
vừa qua.
Chúng tôi được các cơ quan như Hồng Thập Tự, Caritas... bảo trợ và được cho ở
tạm một khách sạn trung bình. Sau đó hội bảo trợ tìm việc, tìm chỗ ở cho chúng
tôi. Tạ ơn những ân nhân đã cứu mạng chúng tôi. Bản thân tôi, do biết chút
đỉnh tiếng Pháp, nên là người đầu tiên trong bọn có việc làm. Công việc cũng
đơn giản, làm Barman cho một quầy rượu của một nhà hàng Việt Nam. Kỷ niệm nhớ
đời của tôi, là tắm nước lạnh trong khi bên ngoài trời đổ tuyết.
Số là sau một ngày lao động chăm chỉ, tôi là người lên phòng tắm sau cùng (vì
ăn ở tại chỗ) nên không biết là nước nóng gần hết. Tắm nửa chừng, mình đầy xà
bông thì... hết nước nóng. Hậu quả là tôi bị nằm liệt hai hôm vì cảm lạnh. Bài
học đầu đời nơi xứ lạ đó là sự cẩn thận cần phải có trong mọi tình huống.
Kỷ niệm thứ hai, suýt làm tôi bỏ mạng... đêm đông. Đêm Giáng Sinh đầu tiên xứ
người "X'MAS 1982": trượt tuyết ngã ngay cổng chính nhà thờ, xương sống đánh
vào bậc thềm và... bất tỉnh.
Khi tỉnh lại, thấy mình được treo lơ lửng trong bệnh viện, xung quanh là bác
sĩ, y tá (không có thông dịch như ở Úc). Tôi phải vận dụng một cách sáng tạo
mọi thứ chữ nghĩa và tay chân mới biết lý do.
Cảm ơn các ân nhân đã cứu mạng lần thứ hai. Đây cũng chính là lý do, khiến tôi
và gia đình phải di dân đến Úc vào cuối 1987. Cuối năm 84, vợ và con trai đầu
lòng tôi 4 tuổi đoàn tụ, sau đó chúng tôi có thêm 2 cháu trai nữa.
Theo lịch trình, máy bay của Thái Airway sẽ đáp xuống Sydney 5 giờ chiều, sau
khi ghé Melbourne lúc 2 giờ chiều. Tuy nhiên, vì trục trặc kỹ thuật, phi cơ
phải đáp bằng bụng, chúng tôi phải ngủ đêm tại khách sạn Travel Lodge,
Melbourne. Sáng hôm sau, 3/8/87, chúng tôi đến Sydney.
Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với xứ Úc đó là: nhà cửa đa số là trệt, gạch,
lại để trần, không tô bên ngoài. Đây phải chăng là nét đặc thù của nền kiến
trúc Úc" Ấn tượng thứ hai: đó là sự hiện diện đông đảo của cộng đồng đa sắc
dân trong xã hội Úc, sống vui vẻ, hòa hợp với chủ nghĩa đa văn hóa.
Cuộc đời tôi lại bắt đầu với quê hương thứ ba, có thể đây cũng là mảnh đất
dung thân cuối cùng, trong cuộc sống làm người của tôi.
Những ngày tháng đầu tiên ở xứ Úc, chúng tôi được sự giúp đỡ nhiệt tình của
đồng hương, của hàng xóm và những người dân Úc tốt bụng.
Sau những ngày tạm sắp xếp chỗ ở cho gia đình, vợ tôi, vì từ ngày lấy tôi đến
nay, chưa từng đi làm: gần 10 năm, nên xin tôi đi may. Còn tôi, vì cần trau
dồi lại Anh ngữ, nên tạm ở nhà chăm sóc các con.
Vài tháng sau, bản thân tôi kiếm được một công việc của chính phủ và làm việc
đó cho đến nay. Riêng vợ tôi, vì giai đoạn thịnh vượng của nghề may, nên cô ấy
xem đồng lương "ba cọc ba đồng" của tôi chẳng thấm gì! Nhiều lần, cô ấy muốn
tôi phải nghỉ việc để phụ việc may vá. Nghề nào cũng quý, miễn là lương thiện;
Tuy vậy như đã kể ở trên, do chấn thương cột sống, bản thân tôi, chỉ có thể
làm được những công việc nhẹ. Tôi quyết định giữ lấy công việc với đồng lương
ít ỏi, tạm đắp đổi qua ngày. Do đó mà những mâu thuẫn cứ thế tiếp tục dâng
tràn, cuối cùng "Anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi".
Tôi lại phải "vượt biển" lần nữa! Vâng, vượt biển lần này không có ngày đoàn
tụ! Cuộc vượt biển không bằng thân xác, không phải sự hiểm nguy trên biển cả.
Mà là sự vượt biển bằng tâm hồn, bằng nửa hồn thương đau. Phải chăng, đây là
một định mệnh"" Định mệnh cho cá nhân tôi.
Người ta viết về nước Úc, như miền đất hứa. Vì những thành công về tài chánh,
công danh, sự đoàn tụ, lòng hiếu thảo.... Nói chung là những điều hay, việc
tốt...
Có lẽ bản thân tôi, đã và đang đóng góp vào lịch sử hình thành của quốc gia
tạm dung, của thế hệ con cái bằng "Nhắm mắt, cho tôi tìm một thoáng hương
xưa..." Văng vẳng đâu đây, tiếng hát Lệ Thu với... "Nửa hồn thương đau".
Độc Cô Nhân - Sydney