Số người Việt hải ngoại về thăm quê hương tăng lên theo thời gian. Năm 1983 chỉ có 1500 người. Năm 1995 con số ấy lên 264.000. Và năm 2000 lại lên 295000 người.
Ngoài ra số tiền người Việt hải ngoại gởi về giúp gia đình, bà con hữu sự cũng tăng. Năm 1999 là 1tỷ 2 đô la. Năm 2000 là 2 tỷ. Đó mới là con số chính thức, đếm được ngoài ánh sáng.
Duy chỉ số tiền mà người Việt hải ngoại mang về để đầu tư chính thức trong nước là không tăng nếu không muốn nói là quá nhỏ, không đáng nói, so với sức người sức của mà Đảng và Nhà Nước CSVN bỏ ra để tuyên truyền vận động, kể cả việc sửa luật đầu tư, luật nhà đất, và hủy bỏ chế độ hai giá đối với người Việt hải ngoại. Theo tài liệu trong nước, suốt từ khi chuyển đổi thành hệ kinh tế thị trường, người Việt hải ngoại chỉ đầu tư tại VNCS, trong 50 dự án, tổng số vốn là 200 triệu đô la. Bổ đồng một năm 20 triệu đô. Quá ít so với tổng số và tài sản vốn liếng của người Việt ở hải ngoại. Con số tự nó đã nói lên lập trường và quan điểm chánh trị của người Việt hải ngoại.
Hiện nay có khoảng 2 triệu rưỡi người Việt sống ngoài VN. Cộng đồng người Việt lớn hàng thứ hai, sau cộng đồng quốc gia trong nước, là cộng đồng người Việt tại Mỹ, gồm 1 triệu 3 trăm ngàn người. Số còn lại chánh yếu định cư ở Âu châu, Úùc châu, Canada. Nói chung là trên thế giới tự do và thuộc văn minh Tây phương. Đại đa số thuộc thành phần tỵ nạn CSVN qua chương trình tỵ nạn của Liên hiệp quốc. Bối cảnh chánh trị và hoàn cảnh lịch sử của cuộc di cư vĩ đại nhứt trong lịch sử VN - có thể so sánh với cuộc Exodus của dân tộc Do thái ra khỏi Cỗ Ai Cập 1300 năm trước Công nguyên - đã giải thích tại sao số người Việt hải ngoại về thăm quê hương, số tiền gởi về cứu giúp bà con trong nước thì tăng theo thời gian, còn số tiền đem về đầu tư lại không đáng kể dù CSVN đã hết sức chiêu dụ.
Tuy nhiên con số quá lớn - hàng tỷ đô la và hàng trăm ngàn người mỗi năm - cũng tạo thành vấn đề chánh trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Vấn đề trở nên tranh luận hơn với bầu không khí tự do và quyền phát biểu ở xã hội Tây phương, nơi định cư của người Việt hải ngoại.
Tổng quát có hai lập trường. Lập trường thứ nhứt, không bắt tay CS, không nối giáo cho giặc, dưới mọi hình thức. Từ đó, đoàn thể thì chống việc Mỹ ngưng cấm vận, bình thường hoá ngoại giao, chống thương ước. Cá nhân thì không về nước, không gởi tiền. Lập trường này mạnh vào những năm đi lại khó khăn, nhưng dần dần yếu đi vì không phù hợp với chính sách trở lại VN của Mỹ; một chính sách mà người Việt tại Mỹ không đủ thế lực để cản trở.
Một lập trường khác đương nhiên phát sinh. Dựa vào việc mở cửa VNCS của Mỹ, có an ninh lộ trình, xâm nhập vào trong lòng địch, ôm thắt lưng địch mà đánh, thay vì ngoại kích từ xa mười mấy năm không hiệu quả. Tràn ngập lãnh thổ VNCS, tràn ngập tâm hồn đảng viên CS bằng ý thức hệ tự do dân chủ. Sử dụng đô la thay vì khẩu M16 để lũng đoạn Đảng bằng tiền. Muốn làm suy sụp một chế độ, cách êm đềm nhứt là làm cho chế độ ấy bị hư hoại bằng tham nhũng, bằng hối lộ, bằng thúc đẩy tranh quyền, giành ngôi vị nội bộ. Cho đến bây giờ lập trường này tỏ ra có lý. Chưa bao giờ CS bị phân hóa hơn bây giờ. Chưa bao giờ VN bị tham nhũng hơn bây giờ (tham nhũng nhứt nhì Á châu theo nhận xét chung của các nhà khảo cứu và truyền thông). Chưa bao giờ CSVN sợ Diễn biến Hòa bình hơn bây giờ.
Trên tinh thần ấy, con số 2 tỷ đô la gởi về, con số hàng trăm ngàn người về lợi hơn hại. Số tiền hai lần cứu lụt Miền Trung và Miền Tây có điều kiện của người tặng, là phải giao tận tay cho nạn nhân, và thường do các tôn giáo đảm trách. Điều kiện ấy đã phá vỡ độc quyền cứu trợ của CSVN và tạo uy tín lớn cho các tôn giáo trong nước. Ở một chừng mực nào đó, cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo được quần chúng hóa và biến thành phong trào mau hơn dự tưởng cũng là nhờ phương tiện tài chánh ấy. Và cũng nhờ hỗ trợ của hải ngoại mà Hòa Thượng Quảng Độ và cụ Lê Quang Liêm (PGHH) đã có điều kiện đi Miền Tây trao quà cứu trợ, công khai chống lệnh cấm của công an.
Giá trị dân chủ tự do "diễn biến hoà bình", phát triễn sâu rộng, từ thành thị đến thôn quê, trong cũng như ngoài đảng, tạo thế thậm chí nguy cho chế độ CS, một phần lớn cũng do những người về thăm quê hương gia đình. Không có đài phát thanh nào, kể cả BBC,VOA, RFI, Á châu Tự do; không có tờ truyền đơn, ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền nào, đi vào trái tim, bộ óc người Việt trong nước hữu hiệu hơn thân bằng quyến thuộc, trên phương diện vận động quần chúng. Người dân chỉ cần so sánh sự sống của người Việt hải ngoại thân nhân với bà con xung quanh trong nước là sẽ nhận chân sâu sắc chế đô dân chủ hơn chế độ CS đến mức nào. Bằng cớ rõ là số người Việt sắp hàng chờ được bảo lãnh đi đoàn tụ vô cùng lớn so với số người Việt hải ngoại muốn trở lại sống với CS. Con số sau gần như là con số không tròn vo.
Cuộc cách mạng tự do dân chủ chỉ xảy ra do, cho, và vì người trong nước, chớ không phải do người Việt hải ngoại về làm nên được. Cách mạng tựï do dân chủ đòi hỏi kiến thức và tinh thần của quần chúng để giác ngộ, phát động, nuội dưỡng cách mạng. Người Việt hải ngoại tuy có điều kiện vật chất nhiều hơn, nhưng không thể nghĩ thay, làm thế cho quần chúng trong nước được. Bên cạnh vai trò quốc tế vận và yễm trợ phương tiện, vai trò chính của bộ phận hải ngoại, đối với cuộc cách mạnh trong nước, là giúp cho giá trị tự do dân chủ tràn ngập lãnh thổ và tâm hồn người trong nước, trong lẫn ngoài Đảng. CSVN cầm quyền bằng bạo lực và nắm quyền trong bí mật. Bao lâu quần chúng giác ngộ cách mạng thì quần chúng sẽ bao vây và phá sập thành trì CS như nhân dân Pháp phá ngục Bastille bí hiểm và đầy lính canh trong Cách mạng Pháp 1789.