Thế kỷ 20 có thể coi là đỉnh cao của Cái Ác, nhập thân vào ý thức hệ, theo nghĩa mà Solzhenytsin đã chỉ ra: Thành quả của Cái Ác, qua sức mạnh và trí tưởng tượng của những Đại Ác Nhân của Shakespeare cùng lắm thì cũng chỉ đếm được trên chục xác chết. Bởi vì đám khốn kiếp này không có ý thức hệ, như là một "nghĩa cả" để mà phục vụ... Nhờ có "ý thức hệ", thế kỷ 20 đã có được cái số phận khốn nạn của nó: kinh qua Cái Ác ở mức độ hàng triệu triệu tử thi."
("The imagination and inner strength of Shakespeare's vilains stopped short at a dozen cadavers. Because they had no idology... Thanks to "ideology" the 20th century was fated to experience evil calculated on a scale of millions.")
Mô phỏng Solzhenitsyn: Nhờ có những người như Arendt, de Beauvoir, Weil, thế kỷ 20 đã còn giữ được ngọn lửa tâm linh của nó. George Steiner tự hỏi, cho tới nay, liệu có một triết tưởng nào (a philosophic imagination), ở trong số những bậc nữ lưu, xứng đáng để kế bên của Simone Weil" Ông tin rằng, người ta phải có một chiều sâu tâm lý của Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới hiểu nổi Weil. Hai nỗi đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ của con quái vật nhà máy, và thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ Đông Dương.
Simone de Beauvoir, qua khẳng định "Tinh thần không có giới tính" (L'esprit n'a pas de sexe), bà đã đem quyền bình đẳng tới cho giới tính thứ nhì, tức những người phụ nữ.
Hannah Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của thế kỷ hung bạo, trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị.
***
Trong ba thập kỷ vừa qua, Hannah Arendt ngày càng được nhìn nhận, như một trong những tư tưởng gia mang tính chính trị, uyên nguyên nhất của thế kỷ chúng ta (thế kỷ 20). Người Đức gốc Do Thái, xuất thân từ một gia đình đã hội nhập, bà chạy trốn nước Đức của Hitler vào năm 1933, khi đó bà 27 tuổi, và sau tám năm ở Pháp, tới Mỹ, như là một người tị nạn. Bà là một trong những người đầu tiên, nếu không muốn nói là độc nhất, đã khái quát hóa cảm nghĩ của chúng ta, về cái gọi là chủ nghĩa toàn trị: như là một đe dọa chết người cho thế giới hiện đại, và đưa ra những chiếu rọi mới mẻ vào cái cõi man rợ đã được công thức, ý thức hệ hóa, biến thành một tổ chức khủng khiếp nhất trong mọi thứ tổ chức, hội kín, mafia, đệ tam, đệ tứ quốc tế... gì gì đó.
Được học hỏi, tu luyện theo truyền thống triết học hiện sinh Đức, bà nhận ra (một cách rõ ràng hơn tất cả các môn đệ khác của môn phái này) những giới hạn của nó, và bà cố suy tưởng (tái suy nghĩ, rethink) bản chất của hành động chính trị dưới ánh sáng của kinh nghiệm thế kỷ 20. Và đây là điểm xoáy (central focus) - sự liên hệ giữa kinh nghiệm và hiểu biết mang tính phê phán, critical understanding- của tác phẩm của bà, theo Lisa Jane Disch, tác giả cuốn "Hannah Arendt và những giới hạn của triết học" (nhà xb Đại Học Cornell Press). Theo Disch, Arendt khẳng định, "kể chuyện" ("storytelling"), chứ không phải giải thích (explantion), mới là tác phẩm của những lý thuyết gia chính trị [khẳng định này làm chúng ta liên tưởng tới một câu nổi tiếng của Marx: Triết gia chỉ lo giải thích, thay vì biến cải thế giới]. Kể chuyện là cách thức mà Arendt sử dụng để giải quyết (deal) những sự kiện và hậu quả của chúng vào một thời đại mà những môn khoa học nhân văn như lịch sử, địa lý, hoặc chính trị học đã không còn làm được chức năng "trật tự hóa quá khứ". Có thể Arendt đã coi (hình thức) kể chuyện như là một giải pháp khả hữu nhất, liên quan tới giá trị mang tính trừu tượng phổ cập, trong những môn khoa học nhân văn. Kể chuyện, theo bà, là một kiểu phán đoán thực tại và kinh nghiệm. Đây là suy tưởng mang tính không trọng hình thức (non-conformist) của Arendt, khi phải phóng ngoại (nhìn ra thế giới), và cũng là quyết tâm của bà nhằm bảo vệ tính toàn thể của "kinh nghiệm sống".
(còn tiếp)
Jennifer Tran.
("The imagination and inner strength of Shakespeare's vilains stopped short at a dozen cadavers. Because they had no idology... Thanks to "ideology" the 20th century was fated to experience evil calculated on a scale of millions.")
Mô phỏng Solzhenitsyn: Nhờ có những người như Arendt, de Beauvoir, Weil, thế kỷ 20 đã còn giữ được ngọn lửa tâm linh của nó. George Steiner tự hỏi, cho tới nay, liệu có một triết tưởng nào (a philosophic imagination), ở trong số những bậc nữ lưu, xứng đáng để kế bên của Simone Weil" Ông tin rằng, người ta phải có một chiều sâu tâm lý của Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới hiểu nổi Weil. Hai nỗi đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ của con quái vật nhà máy, và thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ Đông Dương.
Simone de Beauvoir, qua khẳng định "Tinh thần không có giới tính" (L'esprit n'a pas de sexe), bà đã đem quyền bình đẳng tới cho giới tính thứ nhì, tức những người phụ nữ.
Hannah Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của thế kỷ hung bạo, trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị.
***
Trong ba thập kỷ vừa qua, Hannah Arendt ngày càng được nhìn nhận, như một trong những tư tưởng gia mang tính chính trị, uyên nguyên nhất của thế kỷ chúng ta (thế kỷ 20). Người Đức gốc Do Thái, xuất thân từ một gia đình đã hội nhập, bà chạy trốn nước Đức của Hitler vào năm 1933, khi đó bà 27 tuổi, và sau tám năm ở Pháp, tới Mỹ, như là một người tị nạn. Bà là một trong những người đầu tiên, nếu không muốn nói là độc nhất, đã khái quát hóa cảm nghĩ của chúng ta, về cái gọi là chủ nghĩa toàn trị: như là một đe dọa chết người cho thế giới hiện đại, và đưa ra những chiếu rọi mới mẻ vào cái cõi man rợ đã được công thức, ý thức hệ hóa, biến thành một tổ chức khủng khiếp nhất trong mọi thứ tổ chức, hội kín, mafia, đệ tam, đệ tứ quốc tế... gì gì đó.
Được học hỏi, tu luyện theo truyền thống triết học hiện sinh Đức, bà nhận ra (một cách rõ ràng hơn tất cả các môn đệ khác của môn phái này) những giới hạn của nó, và bà cố suy tưởng (tái suy nghĩ, rethink) bản chất của hành động chính trị dưới ánh sáng của kinh nghiệm thế kỷ 20. Và đây là điểm xoáy (central focus) - sự liên hệ giữa kinh nghiệm và hiểu biết mang tính phê phán, critical understanding- của tác phẩm của bà, theo Lisa Jane Disch, tác giả cuốn "Hannah Arendt và những giới hạn của triết học" (nhà xb Đại Học Cornell Press). Theo Disch, Arendt khẳng định, "kể chuyện" ("storytelling"), chứ không phải giải thích (explantion), mới là tác phẩm của những lý thuyết gia chính trị [khẳng định này làm chúng ta liên tưởng tới một câu nổi tiếng của Marx: Triết gia chỉ lo giải thích, thay vì biến cải thế giới]. Kể chuyện là cách thức mà Arendt sử dụng để giải quyết (deal) những sự kiện và hậu quả của chúng vào một thời đại mà những môn khoa học nhân văn như lịch sử, địa lý, hoặc chính trị học đã không còn làm được chức năng "trật tự hóa quá khứ". Có thể Arendt đã coi (hình thức) kể chuyện như là một giải pháp khả hữu nhất, liên quan tới giá trị mang tính trừu tượng phổ cập, trong những môn khoa học nhân văn. Kể chuyện, theo bà, là một kiểu phán đoán thực tại và kinh nghiệm. Đây là suy tưởng mang tính không trọng hình thức (non-conformist) của Arendt, khi phải phóng ngoại (nhìn ra thế giới), và cũng là quyết tâm của bà nhằm bảo vệ tính toàn thể của "kinh nghiệm sống".
(còn tiếp)
Jennifer Tran.
Gửi ý kiến của bạn