Hôm nay,  

Thăm Đài Tưởng Niệm Người Vượt Biển, Nhớ Lại Những Ngày Trơ Xương, Mắt Trắng Sau Tháng 5-1975

09/02/200600:00:00(Xem: 29550)
- (Kính tặng Thượng Tọa Thích Quảng Thanh và Những Ân Nhân VN Hải Ngoại Đã hoàn thành Tượng Đài tưởng nhớ Người Vượt Biển bỏ mình trên biển Đông.)

Sau khi VNCH bị sụp đổ,chẳng những tất cả Quân, Công, Cán, Cảnh của Miền Nam bị trả thù, cọng sản Hà Nội còn tận tuyệt hủy diệt các tầng lớp tư sản qua tội danh gán ghép, chụp mũ, bịa đặt cho mọi người là bóc lột, phồn vinh giả tạo, nguy dân..Tại Đại Hội đảng lần thứ IV vào tháng 5-1975, Lê Duẩn đã vênh váo tuyên bố rằng, từ nay người VN sẽ đi trên thảm vàng, đồng thời đuổi kịp rồi qua mặt Nhật Bản trong vòng 15 năm tới. Trên thực tế ai cũng biết trước tháng 4-1975, Bắc Việt chỉ có hai công trình vĩ đại nhất là Lăng Hồ Chí Minh tại Ba Đình Hà Nội và Khách sạn quốc tế trên bờ Hồ Tây, do Fidel Castro của Cu Ba xây tặng. Trong lúc đó tại VNCH, đâu đâu cũng có những cơ sở kỹ nghệ nặng và nhẹ, đều được trang bị máy móc mới và tối tân, nhất là các ngành dệt, điện, lắp ráp các loại hàng sản xuất tiêu thụ. Khi VC vào, đã tận tình vơ vét máy móc đem về Bắc, ra lệnh cho nhiều nhà máy ngưng hoạt động hay biến thành quốc doanh, hữu danh vô thực.

Song song với kế hoạch trả thù và tận diệt các tầng lớp trên, VC còn bày thêm quốc sách kinh tế mới vào cuối năm 1975, để đuổi hết số gia đình có liên hệ tới chế độ VNCH, đang sống tại Sài Gòn và các tỉnh thành, đi lao động canh tác tại rừng sâu, núi cao, ma thiêng nước độc. Kế hoạch thâm độc này, vừa tống khứ được những thành phần còn lại mà VC đã xếp loại nguy hiểm, sau khi chồng con thân nhân của họ đã bi đảng gạt vào tù. Có như vậy, VC mới chiếm được nhà cửa ruộng vườn và các tiện nghi của Miền Nam, để phân phối cho cán bộ miền Bắc, lúc đó chỉ có súng đạn, tăng pháo và mớ lý thuyết của Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.

Ai đã từng là tù nhân của VC dù có ở trong các trại tù tại miền Nam hay bị đầy ải ra vùng biên giới Việt Bắc, đã bị giặc cầm giam lâu hay mau, chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ quên nổi những đau đớn về vật chất và nhất là sự tủi nhục tinh thần, khi bị bọn VC gọi chúng ta là ngụy quân, ngụy quyền, là những đống rác bẩn thỉu, cặn bã của xã hội, đánh giặc thuê cho Mỹ, Pháp, Nhật..

Ai đã từng bị VC cướp của, cướp nhà, đày đoạ lên tận miền rừng núi để phát triển kinh tế mới. Đa số đã ngã quỵ vì không chịu nổi mưa nắng, cùng cảnh ma thiêng nước độc, bệnh sốt rét rừng, ghẻ lở, kiết lỵ..mà không có thuốc uống. Cuối cùng những người còn sống, kiệt sức vì đói bệnh, nên đã bỏ rừng chạy ngược về thành. Họ đã trở nên vô gia cư và ở bất cừ nơi nào, kể cả nghĩa địa, gầm cầu, chùa miễu..ăn sống, phó mặc cho định mệnh và bọn công an, tới hốt bắt, đưa lên lại vùng kinh tế mới, rồi họ lại về.Rốt cục huề cả làng, và càng ngày càng có nhiều người vô gia cư sống khắp mọi nẻo đường đất nước, trong xã nghĩa thiên đường.

Chắn chắn những thành phần trên, nếu may mắn bằng mọi lý do gì, nay tới được bến bờ tự do và được sống tạm trên mọi nẽo đường thế giới, chẳng ai có thể vô tâm để quên kiếp đời 'Tị Nạn Việt Cộn ' trăm đắng ngàn cay, biển hờn trời hận, chỉ có thể đầu thai lần khác , họa chăng mới xóa nổi vết nhơ của Dân Tộc VN trong giòng lịch sử cận đại. Bởi vậy, tháng 6 năm ngoái, VC đã dùng quyền lợi để yêu cầu chính quyền Mã Lai, Nam Dương..phá bỏ các Tượng Đài kỷ niệm Thuyền Nhân VN, bỏ mình trên biển Đông, khi trốn chạy khỏi thiên đàng xã nghĩa, tại các trại Tị nam Việt Cộng. Hành động dã man này của bọn đầu sõ Bắc Bộ Phủ, chẳng những không làm ai khiếp sợ, trái lại còn bị Cộng đồng Người Việt Tị Nạn Cọng Sản khắp thế giới thêm khinh ghét, khiến chúng đi tới đâu cũng bị mọi người tẩy chay và biểu tình đã đảo.

Mặc cho thói đời đen bạc, suốt thời gian qua, năm nào cũng vậy, Thượng Tọa Thích Quảng Thanh,Viện trưởng Chùa Bảo Quang ở Santa Ana, miền Nam CA-Hoa Kỳ, cũng đều có tổ chức Lễ Cầu Siêu Vong Linh Những Thuyền Nhân VN, đã bỏ mình trên biển Đông, khi đi tìm tự do, vì bảo tố, hải tặc và sự truy sát của VC. Mới đây, Ông lại cùng với một số ân nhân người Việt tại hải ngoại, thực hiện Đài Tượng Niệm Thuyền Nhân Tị Nạn Cọng Sản VN, ngay trong khuông viên của chùa. Giống như các Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH vị quốc vong thân, Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân TNCS, cũng là một biểu tượng cao quí của Cộng Đồng người Việt TNCH tại hải ngoại, nhắc nhớ cho chúng ta và con cháu, cùng với người ngoại quốc, một thời đại đau thương của Dân Tộc VN, đang quằn quại dưới gông cùm của chế độ tàn bạo bất nhân khủng bố cọng sản. Hai chữ ' Tị Nạn' chỉ được xóa bỏ khi đất nước vĩnh viễn không còn bóng ma và hiểm họa VC, dù mang một thứ mặt nạ nào.

1-PHONG TRÀO VƯỢT BIỂN, TỊ NẠN CỌNG SẢN TÌM TỰ DO (4/1975-2006):

Đầu tháng 4-1975, Người Mỷ đã bắt đầu chạy khỏi Nam VN bằng chuyến bay định mệnh, đưa 250 trẻ mồ côi và 37 nhân viên của DAO đi theo săn sóc. Nhưng chiếc C5 đó đã bị tai nạn, chỉ còn 175 em sống sót với một số người lớn may mắn. Tai nạn này đã báo trước những thảm kịch sắp tới cho làn sóng người bỏ nước ra đi vì không muốn sống chung với rợ Hồ, giết người cướp của.

Ngày 15-4-1975, thượng viên Hoa Kỳ thông qua đạo luật, cho phép 200.000 dân tị nạn Đông Dương, được vào sống trên đất Mỹ. Song song, chính phủ Mỹ cũng mở chién dịch Frequent Wind tại Sài Gòn, để di tản các công dân Mỹ và 17.000 người Việt có liên hệ. Máu lệ và thảm kịch VN đã khơi nguồn từ đó, vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi ngàn ngàn vạn vạn người với đủ mọi phương tiện, tiến ra biển Đông, để mong được Đệ Thất Hạm Đội cứu vớt những chỉ tới ngày 2-5-1975 thì chấm dứt. Tóm lại từ tháng 5-1975 tới bây giờ, người Việt bỏ nước ra đi để tìm tự do và đất sống, hoàn toàn chấp nhận may rủi "một sống chín chết", trong hoàn cảnh bơ vơ tự cứu. Do trên hầu hết những người đến được bờ đất hứa, đã phải trả một giá thật đắt, trong đó một dạo có hằng trăm ngàn câu chuyện, bi thảm não nùng của thuyền nhân VN, bị HẢI TẶC THÁI LAN cướp giết, trôi giạt vào hoang đảo và đã ĂN THỊT NGƯỜI lẫn nhau để mà sống.

Sau khi cưỡng chiếm xong VN, đảng Hồ và đảng Mao trở mặt, nên VC đã quy tội cho Ba Tàu Sài Gòn-Chợ Lớn là mối đe dọa, rồi đòi Trung Cộng phải qua hốt hết 1,2 triệu người Việt gốc Hoa về nước. Sự kiện được Tàu Cộng chấp nhận, phái hai chiến hạm tới các hải cảng VN để nhận người. Nhưng đến cho có mặt, chứ Tàu Cộng đâu có ngu, lãnh đám dân nghèo này về nước để nuôi ăn, vì vậy nửa đêm nhổ neo rút cầu, âm thầm về nước. Sáng ngày 24-3-1978 trên khắp các nẻo đường Sai Gòn-Chợ Lớn, bổng xuất hiện rất nhiều xe vận tải, chở công an, bộ đội và hằng ngàn thanh niên nam nữ đeo băng đỏ trên tay áo. Theo đài phát thanh của VC thông báo, thì đây là chiến dịch "Đánh Tư Bản - Diệt Thương Gia". Trước đây vào sáng ngày 20-3-1978, tại Chợ Lớn, cũng đã có một cuộc xô xát, giữa trăm người Hoa và công An VC phản đối bắt bắt lính, bắt đi kinh tế mới và đòi được trở về Tàu, sống với Trung Cộng. Nhưng lần này, cuộc bố ráp qui mô không phải để bắt người Hoa chống đối hôm trước, mà là xộc vào từng nhà,cùng các cửa tiệm, để kiếm tiền đôla và vàng cất dấu, cũng như kiểm kê tất cả hàng hóa kể cả cây chổi, ngoại trừ hình "bác" và lá cờ "đảng", máu đỏ sao vàng. Nghe nói lần đó, đảng đã hốt của Người Hoa gần 7 tấn vàng và cả mấy chục bao bố tiền đô Mỹ, khiến cho mấy chục người uất hận phải tự tử chết. Vậy là đảng đã ba bước nhảy vọt, chiến thắng tư bản chủ nghĩa, bước lên thiên đàng xã nghĩa ưu việt. Cũng từ đó đã có trên 250.000 Hoa kiều phải bỏ nước ra đi và theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn năm 1983, trong số này có trên 50.000 đã chết trên biển vì sóng gío và hải tặc Thái Lan.

Sau ngày 30-4-1975 khi Miền Nam bị VC Hà Nội cưỡng chiếm, thì Biển Đông đã trở thành cửa ngỏ để đồng bào vượt thoát tìm tự do. Nhưng đồng thời biển cũng đã biến thành hỏa ngục và trên hết, đảng VC đã thưc hiện được công trình vĩ đại nhất trong Việt Sử. Đó là KỸ NGHỆ XUẤT CẢNG NGƯỜI, từ cho thuyền nhân vượt biển chính thức, tới các chương trình ra đi có trật tự (ODP), hồi hương con Mỹ Lai và Mua Vợ Bán Chồng giả. Tất cả các nghiệp vụ trên, đều giúp cho tập thể lãnh đạo đảng giàu to nhờ thu vào được nhiều vàng, tính tới cuối năm 1989, đảng thu vào chừng 3.000 triệu mỹ kim, con số nhìn vào thấy rởn tóc gáy nhưng lại là sự thật. Bởi vậy đâu có ngạc nhiên, khi biết xã nghĩa VN, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, lại có nhiều tỷ phú đứng hàng đầu nhân loại.

Theo sử liệu thì năm 1978 là năm VC chính thức trục xuất người Hoa ra biển. Đây cũng là thời gian đảng xuất cảng người nhiều nhất, mà theo thống kê của Cao Uỷ Tị Nạn, số người tạm trú tại các Trại khắp Đông Nam Á, lên tới 292.315 người. Cũng theo tài liệu của Hồng Thập Tự Quốc Tế, thì từ năm 1977-1983 đã có khoảng 290.000 người đã chết hay mất tích trên biển Đông.

Ngày 15-1-1990 khi mà Mỹ chuẩn bị bãi bỏ lệnh cấm vận và lập bang giao với VC, thì tại vùng biển Nakhon Si Thammarat, có 11 thi thể PHỤ NỮ VIỆT NAM, tất cả đều trần truồng thê thảm, trôi tắp vào bờ. Theo Thiếu tá cảnh sát Thái Chumphol, người có trách nhiệm lập biên bản khám nghiệm, cho báo chí biết, thì tất cả các nạn nhân, có tuổi từ 18-20. Họ bị giết sau khi bị hải tặc Thái Lan hãm bức nhiều làn. Đây cũng chỉ là một trong ngàn muôn thảm kịch máu lệ của thân phận VN, từ khi VC cưỡng chiếm được đất nước. Đã có hằng triệu người chết trong lòng biển, khi tìm tới những địa danh Songkhia,, Pulau Tanga, Pulau Bidong, Galang..Có nhiều cái chết của thuyền nhân thật tức tưởi và oan khiên, mà không bút mực nào viết cho nổi, chẳng hạn như Tàu của Chủ Khách Sạn "Lộc Hotel " ở An Đông, chở trên 500 người, đi bán chính thức nhưng khi tới Gò Công thì bị gài bom nổ, chết sạch chỉ có tài công và 3 người may mắn sống sót. Tàu Lập Xương đi bán chính thức ngày 22-1-1979, chở 200 người, cũng bị gài bom nổ ngoài biển, chỉ còn một vài người may mắn sống sót được Tàu Panama cứu đem vào trại Tị Nạn. Đây cũng chỉ là một vài chuyện nhỏ trong ngàn muôn thảm kịch mà thuyền nhân, đã chịu từ khi phong trào vượt biển bùng nổ vào d0ầu năm 1977-1989.

Người vượt biển tìm tự do, ngoài sóng gió bão tố bất thường không biết trước, còn chịu thêm cảnh săn đuổi của công an, bộ đội biên phòng và ghe tàu đánh cá quốc doanh có trang bị súng máy và súng cá nhân. Nhưng hãi hùng nhất vẫn là Nạn Hải Tặc Thái Lan. Bọn này rất hung ác, tàn bạo, sau khi chận bắt thuyền vượt biển, chúng cướp giựt hết tất cả tài sản, đánh đập mọi người, hãm hiếp phụ nữ và bắn bỏ những ai muốn trốn hay chống lại. Sau đó để phi tang, chúng đốt thuyền cho chìm, giết hết đàn ông và bắt đem theo phụ nữ, hành lạc cho tàn tạ và đem về đất liền bán cho các động đĩ.

Câu chuyện của một chiếc tàu vượt biển lênh đênh sau 32 ngày bị hải tặc Thái Lan đánh cướp, chỉ còn có 52 người sống sót, thì gặp được Chiến Hạm USN.Dubuque, do Đại Tá Alexander chỉ huy, nhưng bị từ chối không cứu vớt, khiến cho số người trên chết gần hết. Những người sống sót phải ăn thịt bạn bè để cầu sinh. Viên Đại Tá Mỹ vô nhân đạo trên, bị Bộ Hải Quân Mỹ lột chức và truy tố ra Tòa Quân Sự.

Cũng do hằng ngàn câu chuyện đứt ruột của người vượt biển tìm tự do, mà nhân loại ngày nay có thêm một danh từ độc đáo "Boat People", giống như trước kia người Do Thái, qua cuộc hành trình tìm đường về đất hứa, cũng đã làm nảy sinh danh từ " Holocaust ". Tuy nhiên, nếu đem so sánh, kể cả chuyện người Do Thái bị Đức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến 2, thì thảm kịch vượt biển của người VN trên biển Đông, vẫn bi đát hơn nhiều.

Năm 1945, VC núp trong Mặt Trận Việt Minh, lợi dụng nạn đói năm Ất Dậu, để tuyên truyền và cướp chính quyền từ trong tay người Quốc Gia, nhờ vào súng đạn của người Mỹ. Từ năm 1955-1975 VC gây nên cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, và đã cưỡng chiếm được VNCH, nhờ Nixon-Kissinger dàn dựng lên Hiệp định ngưng bắn 1973, hợp thức hóa sự chiếm đóng của cọng sản Hà Nội trên lãnh thổ Miền Nam.

Ngày nay, VC lại đem tình thương nhớ quê hương VN ra khuyến dụ người tị nạn, mong mọi người hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận nước thù nhà. Nhưng VC đã lầm, cho dù đã có nhiều người tị nạn trở về VN nhưng thực tế hầu hết chỉ vì gia đình. Sau đó ai cũng quay lại miền đất tự do, để chờ một ngày chính thức được theo sau gót voi của Quang Trung Đại Đế về giải phóng Thủ Đo Sài Gòn-Huế-Hà Nội. Ngày đó chắc không xa, vì hiện nay cả nước đều biết chế độ cọng sản đã sụp đổ toàn diện, từ ý thức hệ, lãnh đạo, kể cả huyền thoại Hồ Chí Minh, cho tới đời sống tinh thần, kinh tế, xã hôi. Chính sự xét lại của đảng, đã minh chứng sự sụp đổ trên.

Thân phận người Thuyền Nhân VN là thế đó, tại sao ngày nay la.i có một số người đòi bỏ danh từ 'Ti Na.n Việt Cộng '", để đồng hóa chúng ta thành kẻ di dân vì miếng cơm manh áo, trong lúc đó thật sự chúng ta chỉ bỏ nước ra đi để tị nạn chính trị, vì không thể nào sống nổi dưới chế độ cầm thú bất nhân vô tổ quốc của VC.

Người Bình Thuận đã bỏ xứ mà đi ngay khi giặc về đêm 18-4-1975, đa số là người Bắc di cư ở các phường ven biển như Thanh Hải, Phan Rí, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú và nhất là Bình Tuy. Từ những năm 1977 tới 1980, đảng Cộng Sản qua công an và hải quan 'bán chính thức' tổ chức vượt biển để lấy vàng, dù trước đó, luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luật hình sự, điều 85, mục 2 và điều 88, xử phạt nặng kể cả công an, cán bộ cưỡng ép, xúi giục người trốn ra nước ngoài. Năm 1977 khởi đầu thử nghiệm chuyện xuất cảng người, mà đối tượng là giới tài phiệt Việt-Hoa, theo thời giá mỗi đầu người 10 lạng vàng y, trị giá 4000 đô la Mỹ. Cũng trong năm này, Phan Thiết có tổ chức đi bán công khai nhưng sau đó dẹp luôn vì ai cũng muốn đi chui, vừa rẽ lại an toàn.

Có một điều tréo cẳng ngỗng là Bình Thuận là nơi có nhiều cửa sông, bến cảng, ghe thuyền lớn và rất nhiều, nhưng hầu như có ít tầu ghe vượt biên, ngoại trừ số ra đi năm 1975. Tại trại Pulau Bidong, từ năm 1977 cho tới 1980, có tới mấy trăm tàu vượt biên, nhưng ghe Bình Thuận chỉ có chừng 5 chiếc, một là tàu đi bán công khai năm 1977, số còn lại là chiếc giã Nùng Phan Rí, I chiếc khác mang số Phan Rí là tàu quốc doanh và chiếc duy nhất có 32 người Phan Thiết, đi ngày 31-10-1978 tại bãi Thương Chánh, mang số PT1109, là tàu số 100 của trại Bidong, Mã Lai Á. Vào tháng 9/1978, lợi dụng Việt Cộng Bình Thuận no say ăn mừng, một chiếc tàu đánh cá hạng trung tại Bình Hưng, chở trên 200 người, công khai ra biển vào ban ngày. Chiếc tàu vượt biên may mắn trên lại gặp may mắn lần nữa khi tiếp cận với một chiếc tầu dầu Mỹ, tất cả được vớt và gởi tạm thời tại một trại tị nạn ở thủ đô Jakarta, Nam Dương.

Sau này, nhiều người Phan Thiết vượt biển kể rằng sở dĩ họ không dám vượt biên ở tỉnh nhà vì hầu hết những người có tàu thuyền tại địa phương rất gian xảo, đồng ý tổ chức lấy vàng, rồi đi báo công an, sau đó tiếp tục làm lại từ đầu. Nhưng theo dân biển, thì họ cũng bị người đi vượt biên gạt bằng cách chung vàng giả, chỉ có lớp vàng mạ ở bên ngoài, bên trong là chì, bạc hay là đồng. Tóm lại ai thật ai giả, không biết đâu mà mò. Nhưng có điều chắc chắn là từ sau năm 1980, gần 90% các chủ ghe tàu Bình Thuận đã đem tàu thuyền của họ ra đi không trở lại, mãi tới đầu năm 1990, khi Đông Au, Liên Xô giã từ thiên đàng xã nghĩa, Việt Cộng đói quá chịu mở cửa đón Việt kiều khúc ruột xa khơi trở về, các chương trình đoàn tụ gia đình, diện con lai, HO.. và trên hết quốc tế chấm dứt nhận người vượt biển, người Bình Thuận mới chịu chấm dứt mộng du học ngoại quốc bằng đường biển.

2- THƯỢNG TỌA THÍCH QUẢNG THANH VÀ PHẬT GIÁO BÌNH THUẬN:

Ở con người nói chung, ai cũng muốn mơ mộng để quên thực tế, phủ nhận hiện tại mà hướng về tương lai. một thứ mơ mơ màng màng, nằm giữa cái có và cái không có hay chưa có, do thúc đẩy của những biểu hiện tôn giáo và quyền lực trần gian.

Lịch sử của đất Thuận Thành vốn đã mù mịt như gió cát bốn mùa, thì lịch sử của những gì liên hệ với đất và người Bình Thuận qua ba trăm năm, cũng không khác trên đại thể. Nói chung khi nghiên cứu những tín ngưỡng của bản địa, qua những lời đồn đại, sấm ký viện dẫn của thời này, thời nọ, để suy tôn hay hạ bệ thần thánh, chưa kể những người chết oan khiên, khuất lấp vì đất nước, xóm làng nhưng thân phận của ho, thì thật là não nề, vì lúc thì lên bàn thờ hay bị sỉ nhục là ngụy giặc. Sự có mặt của Phật giáo và Đạo Thiên Chúa trên vùng biển mặn, đến nay cũng không ai biết chính xác dù ở đâu cũng thấy có đình chùa, dinh vạn rất cổ xưa, kể cả ba bốn cái nhà thờ Thiên Chúa tại Làng Lạc Đạo, Kim Ngọc, Phan Rí, Tầm Hưng, xét về niên đại cũng trên vài ba trăm tuổi. Nói chung Phật giáo và Đạo Thiên Chúa tại Bình Thuận, mới thật sự là hai kẻ đồng hành, vì đã cùng nhau san sẻ tất cả nổi bể dâu trầm thống suốt các giai đoạn lịch sử.

Cơn biến động chính trị của lịch sử VN từ bốn thế kỷ cận đại qua, nhất là thời kỳ XIX-XX, đã đưa đất nước vào một quỹ đạo thế giới hơn là dân tộc. Bởi những nhà lãnh đạo chính trị lẫn tôn giáo, quá vụng về khi tiên tri những khuynh hướng của VN, cho nên đã làm hỏng bét đại sự, khiến cho giờ chót, Hồ Chí Minh và đảng cọng sản đệ tam quốc tế, một thứ chính trị sặc mùi tôn giáo nửa nạc nửa mở, thời trước, đã bị những nhà tiên tri, khinh bỉ gọi đùa la ' hoa cứt lợn cắm bãi phân trâu ', lại đại công cao thành, chó nhẩy bàn độc vào giờ thứ 25, ngày 30-4-1975. Tất cả cũng vì lãnh tụ ba làng đi tìm kẻ không người có, trong lúc đó, lại bỏ quên tuyệt đại quần chúng đang ngóng chờ. Cuối cùng sự tuyệt vọng, ơ hờ đã khiến cho họ bị cuốn hút trong mật ngọt tuyên truyền của cọng sản, cuồng nhiệt chạy theo Việt Gian, Việt Minh, Việt Cộng làm giặc và chuốc lấy sự đau hận trùng hằng trong bao chục năm qua và không biết tơí bao giờ moí ngoi lên khỏi vũng bùn ô nhục của cái gọi là thiên đàng xã nghĩa

Nhìn lại lịch sử VN, ta thấy tổ tiên ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng. Chẳng hạn như khi Bình Định Vương Lê Lợi trong mười năm kháng chiến, đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi nhưng cũng từ đó đã không theo các thời đại Hậu Lý, nhà Trần dùng Đạo Phật làm quốc giáo để an bang tế thế, mà lại chạy theo Trung Hoa, chọn Nho Giáo làm một thứ trung tâm quyền lực, để tri thiên mệnh. Từ năm 1884 -1945, Đạo Thiên Chúa từ phương tây vào thay thế Nho Giáo của nước Tàu, làm quốc giáo. Tình trạng trên vẫn không thay đổi suốt thời đệ nhất cộng hòa miền Nam (1955-1/1/1963) và sau đó trong khoảng thời gian 1964-1975, những nhà lãnh đạo Phật giáo VN cũng đem chính trị vào thay thế Phật giáo, cho nên tất cả sự lầm lẫn của mọi thời đại kể trên, khi gạt bỏ một tín ngưỡng lớn của dân tộc như Phật Giáo bên lề thế sự, làm cho đất nước mất chỗ tựa, tất cả đã góp phần hình thành một nước Việt Nam bị cọng sản quốc tế đô hộ tới bây giờ.

Xưa nay, trong quan điểm đối đầu giữa Phật giáo và các thế lực Nho giáo, Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Mác Xít, Phật giáo VN đã bị đẩy lùi về phía tiêu cực và tác dụng của nó chỉ là sự trì trệ như đã thường trực bao đời.

Nhưng dù bị bức bách thế nào chăng nửa, Phật Giáo cùng với Lão Giáo, trong dòng sử VN vẫn luôn là một nền tảng chung cho các khuynh hướng chính trị VN, nhất là từ khi Pháp chính thức đô hộ nước ta sau hiệp ước 1884. Nhiều phong trào Cần vương mang dấu ấn tín ngưỡng đậm nét khắp ba miền đất nước như Kỳ Đồng, Bạch Xỉ và bàng bạc khắp đất Nam Kỳ thuộc Pháp, qua các giáo phái xuất phát từ Phật Môn như Phật Thầy Tây An của Dòng Bửu Sơn Kỳ Hương Chính Thống. Thế giới đại chiến khốc liệt lan tràn khắp nơi, gợi ý về ngày tận thế, về hội Long Hoa với Phật Di Lặc, đã là những cơ hội thuận chiều lịch sử để các giáo phái Cao Đài cũng như Phật Giáo Hòa Hảo khởi nguồn phát triển, tạo một bước ngoặt khi giáo chủ thành nhà chính trị, đạo giáo xê dịch qua bước trần thế, không những đã nắm vững tinh thần tín đồ mà còn tạo được một sức mạnh cho đảng phái, dù về sau các giáo chủ đã đổi lấy bằng ngay chính sinh mệnh của mình như Đức Huỳnh Phú Sổ.

Hơn hai ngàn năm về trước, khi phần đất Nam Việt của Triệu Đà trong đó có nhóm Lạc Việt của Bách Việt, nhân cơ hội tàn tạ của nhà Đường, đã đứng lên dành lại độc lập đã có từ thời các tổ Hùng Vương và dựng nên một nước Đại Việt hùng mạnh ở phương Nam, tồn tại cho tới ngày nay. Trong núi vốn không có Phật mà Phật chính ở trong tâm ta , nếu tâm ta lắng lại thì trí huệ sẽ xuất hiện, đó chính là Phật, như lời của quốc sư Trúc Lâm-Phù Vân, thầy của vua Trần Thái Tông, người khai sáng nhà Trần 1225-1400 đã nói, hay ý nghĩa siêu việt trong bài kệ của quốc sư Vạn Hạnh, thầy của vua Lý Thai Tổ, người lập nhà Hậu Lý 1010-1225:

'Thân như sấm nổ chớp lòa

Xuân hoa nở rộ, thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

thịnh suy như hạt, sương rơi đầu cành'

Phải chăng đó chính là những lý do, khiến cho Phật giáo đã trở thành kẻ đồng hành và thường trực ở trong lòng con người VN trong suốt chiều dài của lịch sử, cùng chia sẽ niềm vui cũng như tuyệt vọng, hứng chịu tang thương chết chóc từ sau ngày 30-4-1975, khi giặc Hồ cưỡng chiếm được quê hương.

Phật giáo đã hòa tan vào máu thịt của dân tộc và trở thành một Đạo Việt, đó là một chân lý nhưng có phải vì lầm lẫn để chính trị xen vào Đạo Phật mà đạo đời không hòa hợp" Ta biết từ sau tháng 9-1945, khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị, cũng là là lúc nhà Nguyễn chấm dứt, làm cho các thần linh đất Việt lấn cấn vì không còn danh nghĩa để ngồi trên bàn thờ. Cũng may đa số thần thánh trong dòng tín ngưỡng dân gian VN đã có từ lâu, cho nên các Ngài cũng đã hòa nhập vào truyền thống nối kết với dân gian, trong một khoảng vô hình có trật tự, nên đã niú kéo được niềm tin và ngôi vị. Từ 1945-1954, Liên khu V bao gồm các tỉnh miền Trung từ Phú Yên tới Quảng Nam, khi chính quyền lọt vào tay Việt Minh-Việt Cộng, là khu vực thần linh nước Việt, tan rã và sụp đổ thật sự, khi hầu hết các đình, đền, miếu, chùa, vạn bị phá hủy để tiêu thổ kháng chiến theo lệnh của Hồ Chí Minh, một hình thức che đậy ý đồ ý thức hệ phát xít, vô thần, muốn tiêu hủy tất cả để đổi thay triệt để. Đây không phải là sự xô bồ của luận cứ, cho là vì lẫn lộn trong bản chất và hiện tượng triết học của biện chứng pháp duy vật sử quan, mà buổi đầu đảng đã lầm lẩn. Thật sự là cố ý, vì những chứng liệu miên tục kéo dài mấy mươi năm qua, xác quyết cái tính chất mập mờ của cọng sản đệ tam quốc tế, luôn có hai mặt đảng và tín ngưỡng. Có như vậy mới tuyên truyền, ru ngủ và lôi kéo được nhiều người, kể cả những người có học thức cao, theo Hồ làm giặc.

Đứng bên lề lịch sử, nhìn vào lịch sử bằng con mắt của một người dân thường, ta phải công nhận nhờ hậu quả ngày binh biến 1-11-1963 mà Phật giáo VN đã đạt được nhiều thành công đáng ca tụng. Sau năm 1964, Phật giáo đã có nhiều cơ sở vững chắc như Viện Hóa Đạo, Đại Học Vạn Hạnh, hệ thống trung tiểu học Bồ Đề khắp VNCH với 112 trường -80.000 học sinh, các chùa VN Quốc Tự, Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi..cũng như sư thành lập các khuông hội Phật giáo tỉnh, gia đình Phật tử...

Nhưng rồi nhũng chuyện xưa tích cũ, những lời vàng ngọc của các thánh tăng rao dạy, những chữ bần tăng, bần ni yêu quý của Phật giáo đã biến mất, vào thời kỳ loạn tướng kiên tăng 1964-1967 khi các sư-cha đua đòi chạy theo vật chất và quyền lực, dẫn đến sự chia rẽ hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo, làm cho đạo pháp vừa mới loé ánh hào quang, thì đã tắt ngủm trong sự ngao ngán của muôn người, nhất là những Phật tử đang làm lính giữ nước và bảo vệ đạo pháp. Vậy mà lúc nào cũng đòi phải tách tôn giáo ra khỏi chính trị, thật là khôi hài. Xét cho cùng cũng là do Phật tại tâm, nhưng trong tâm đã không có Phật thì biết tìm Phật ở đâu, phương chi trong bất cứ mọi sinh hoạt nào, kể cả tín ngưỡng, sự phân biệt giữa chính trị và tôn giáo rất mù mờ, vì chính trị là đám đông, còn tôn giáo là sức mạnh. Làm cách nào để có sự hòa hợp giữa đám đông và sức mạnh mới là thành công.Xã hội VN bao đời vẫn lấy nông nghiệp, xả thôn, thành hoàng làm gốc và đó chính là căn bản của thần quyền cũng là chỗ dựa vững chắc của vua quan thời quân chủ. Do hiểu thấu nguyên lý sinh tồn đó, mà các đời vua Đại Việt từ nhà Ngô (939 sau TL), cho tói nhà Trần 1225-1400, đã trọng dụng các vị cao tăng Phật giáo, coi như là quốc sư giúp vua luận bàn việc nước. Hiểu thấu tai hại sự đồng hóa gián tiếp Bắc phương qua Nho giáo, mà người Việt đã hấp thụ và ảnh hưởng trong 1000 năm đô hộ, nên hai đời Lý-Trần đã hoàn thành một Đạo Phật Việt tức Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, từ ba hệ phái Phật giáo thế giới như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Võ Ngôn Thông và Thảo Đường.

Từ đầu thế kỷ XV, Nho giáo được coi như là trung tâm quyền lực của nhà Hậu Lê , khiến cho Phật giáo cũng như Đạo Lão, từ địa vị quốc giáo, bị triều đình quên lãng nên chỉ còn tồn tại trong giới bình dân ở thành thị cũng như miền thôn dã quê mùa.

Phật giáo đã ăn rể vào quốc dân Việt Nam suốt 2000 năm lịch sử, nên Phật tính đã là da thịt xương máu của con người, chẳng những là tín đồ Phật tử mà còn ngay trong người ngoại đạo, tạo thành một thứ bản sắc từ bi nhân ái đặc biệt, mà ai cũng nhận ra, ngoại trừ lũ vô thần cọng sản đệ tam quốc tế, đã công khái chối bỏ quốc tính của giống dòng, khi công khai xác nhận: 'yêu nước là yêu nước xã hội chủ nghĩa của Mác-Lê-Mao-Hồ'.

Xưa nay ở đâu, thời nào cũng đều có loạn tướng kiêu tăng nhưng những con rối này, rồi ra cũng chỉ như đám lục bình trôi giạt trên sông, không đại diện cho ai hết cũng như không là gì đối với mấy chục triệu Phật tử và tăng già VN. Ngoài ra sự áp đặt tù gông cọng sản cùng những cái thứ quốc doanh tôn giáo này nọ, chỉ là một trong muôn ngàn pháp nạn, mà dân tộc Hồng Lạc đã từng hứng chịu trong dòng sử Việt, đâu có phải là chặng đường cuối cùng của Phật giáo. Sự tàn bạo của cường quyền Việt Cộng, đối với Phật giáo VN từ sau ngày 30-4-1975, đã là những ngọn hỏa sơn ngầm đang chờ phun lửa, thiêu rụi toàn bộ lâu đài của đảng cọng sản, được xây dựng trên đống xương vô định của dân tộc. Người VN ai cũng có cái tâm từ bi của Phật Bà Quan Âm, cái hồn nhân ái vị tha của Như Lai Phật Tổ nhưng không thiếu trong máu cái dũng liệt ngút trời của Ngô Quyền, Hưng Đạo, Quang Trung, Nguyễn Thái Học..cho nên chắc chắn pháp nạn sẽ đi qua và chúng ta lại hy vọng ngày Long Hoa khai hội, để ai nấy đều được sống với cái huệ tâm thuần ái thời Lý-Trần.

Đây cũng là căn nguyên và đại thể của Phật giáo Bình Thuận suốt ba thế kỷ qua. Trong lịch sử tranh chấp quyền hành, kẻ thắng bao giờ cũng chỉ nói tốt và tự sơn son bôi phấn để làm đẹp cho chính gương mặt mình. Giản dị như lời phán của Cesar: 'tôi đã đền, đã thấy và đã trở về'. Phật gíáo là một tôn giáo lớn của dân tộc VN, có quá trình gần bằng chiều dài lập quốc của Đại Việt, cho nên có đủ chính danh, chính thống, không cần phải lý thuyết hay biện minh. Tìm hiểu về gốc nguồn của Phật gíáo trên quê hương miền biển mặn cũng vậy, nên cũng không cần để ý tới những lúc quyền lực đẻ ra chính thống, đạo pháp, mà phải đi tìm lại buổi hoang sơ, khi người lưu dân Đại Việt từ miền Ngũ Quảng, Thuận Hóa, tay gươm tay cuốc, hồn thơ, tâm Phật, đặt chân tới cái xứ hoang mạc, cát gió này.

PHẬT GIÁO BÌNH THUẬN:

Qua các tài liệu lịch sử, cho biết vào giữa thế kỷ thứ VIII sau Tây Lịch, miền bắc Chiêm Thành có biến động nên đã dời về miền nam và xây dựng vương triều Panduranga tại vùng Khánh-Ninh và Bình Thuận ngày nay, kéo dài hơn một thế kỷ. Người Chàm vùng Ninh và Bình Thuận gọi những Tháp Chàm xây bằng gạch là Kalan, có nghĩa là đền thờ, nơi tế lễ các vị vua chúa như Kolan PôTâm ở Phan Rí hay Kalan Pô Rômê tại Phan Rang...Đáng tiếc là hầu hết các Tháp Chàm còn tồn tại, đã mất hết các đồ thờ tự bên trong, nên rất khó khăn để các sử gia cũng như nhà biên khảo xác định rõ chức năng từng ngôi tháp, dù trên vách hay quẩn quanh còn lưu lại các hình vẽ và bia ký.

Cũng từ những chép ghi trên bia ký, ta biết thời đó song hành với nước Hoàn Vương ở phương bắc Chiêm Thành,còn có một triều đại khác đã xuất hiện ở nam phương là vương quốc Panduranga, mà các sử gia gọi là bá quyền, nổi lên như một trung tâm chính trị của cả nước. Về vương triều này, bia ký có ghi, kế vua Rudravarman III, là vua Prathivindravarman, sau này được các pháp sư coi như chúa tể cả hai miền. Tới triều đại vua Satyavarman, miền nam đã phải đương đầu với cuộc xâm lăng của người Java vào Panduranga năm 774. Tới năm 787 thời vua Indravarman, người Java lại tấn công Chiêm Thành nhiều lần. Vì Nam Dương lúc đó là trung tâm của Phật Giáo Ấn Độ, bao gồm ba thừa : Đại, Tiểu và Kim Cương, cho nên Phật giáo cũng đã theo chân những người viễn chinh và thương buôn Java, ảnh hưởng từ Khánh Hòa vào tới Bình Thuận. Sau đó vương triều lại thiên đô về Đồng Dương trong tỉnh Quảng Nam, gọi là Indrapura, từ giữa thế kỷ thứ IX tới cuối thế kỷ thứ X với tên nước là Chiêm Thành, theo Phật giáo, dù Bà La Môn vẫn còn. Điều này đủ để xác nhận được, là trong thời gian vương triều Panduranga tồn tại, đã có người Chàm sinh sống ở Bình Thuận theo Phật giáo, cho nên vào năm 1974 đã đào được nhiều tượng Phật bằng đồng của người Chàm tại Phước Thiện Xuân, Hải Long.

Từ năm 1693 khi thống suất Nguyễn Hữu Cảnh bình xong Thuận Trấn, thì Phật giáo cũng theo đoàn lưu dân tới chốn tạm dung. Rồi theo thời gian từ Đình Làng thờ thần của làng xã, triều đình, đã phát triển thành một hệ thống Chùa thờ Phật có sư sãi trụ trì, do chính Giáo Hội đề cử. Theo Phật sử, Phật giáo Bình Thuận hầu như chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Phú Yên qua các Tổ Bảo Tạng, Hữu Đức, Hòa Thượng Thái Bình, Hưng Từ, Viên Quang, Tịnh Hạnh...và từ Biên Hoà-Gia Định có Tế Tín Chánh Trực, Liễu Thành, Liễu Đoan...Ngoài ra còn có nhiều người từ Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Bình Thuận hoằng dượng đạo pháp.

Về niên lịch đầu tiên Phật giáo chính thức phát triển thì không thấy một tài liệu nào ghi chép nhưng chắc chắn, thi ngôi chùa Phật Quang tại Xóm Cát, làng Hưng Long là chùa Phật giáo đầu tiên trên đất Bình Thuận vào năm 1736 do Thiền Sư Đạo Chơn Thường Trung từ Phú Yên vào trụ trì và khởi đầu công trình khắc bản gỗ bộ kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, kéo dài tới 28 năm mới hoàn thành. Năm 1800, hòa thượng Đạo Chơn Quang Huy từ Phú Yên vào trụ trì tại Chùa Liên Trì, hiện còn trên đường Khải Định, phường Đức Nghĩa, Phan Thiết. Tổ Hủu Đức xuất gia từ năm 1829, sau đó dựng các chùa Bửu Lâm tại Phước Thiện Xuân, Linh Sơn Trường Tự trên nuí Takou và đã viên tịch năm 1887 tại chùa này. Khoảng năm 1838-1839, thiền sư Hải Bình-Bảo Tạng từ Phú Yên vào khai dựng Chùa Linh Sơn Vĩ nh Hảo, chùa Cổ Thạch-Tuy Phong, chùa Long Hưng và chùa Châu Viên. Ngài đã viên tịch năm 1872 tại chùa này.Năm 1850, đại sư Như Thành Nhất Bổn đúc chuông chùa Long Quang-Phan Rí. Khoảng năm 1854-1855, hòa thượng Tăng Cang Liễu Thành từ chùa Từ Ân-Gia Định đến trùng tu chùa Liên Trì. Năm 1910 hòa thượng Thanh Tùng Huệ Đạt trùng tu và đúc chuông chùa Bầu Trâm. Từ 1913-1924, hòa thượng Thanh Tâm-Huyền Thái Bình trụ trì chùa Linh Sơn Long Đoàn và đã viên tịch tại đây năm 1924. Hòa thượng Trang Quảng Hưng-Phật Huệ từ Quảng Nam vào lập chùa Pháp Bảo năm 1930. Vào năm 1936, Ni trưởng Diệu Tịnh từ chùa Phi Lai-Châu Đốc tới lập chùa Bình Quang Ni tự tại làng Đảng Bình, Phan Thiết, chùa này được vua Bảo Đại sắc tứ và từ đó là tổ đình của chư ni Bình Thuận. Chùa truyền qua các ni trưởng Huyền Tông, Huyền Học, Huyền Phương và năm 1999 là Ni Tâm. Được biết, nhà văn nữ nổi tiếng một thời của Phan Thiết-Bình Thuận, là Nguyễn Thị Thu Nhi cũng làm lễ thí phát tại ngôi cổ tự này.

Năm 1938, Phật học hội được thành lập bởi các cư sĩ Đoàn Tá, Ấm Cương, Thừa Tiêu, Thừa Châm...do Đoàn Tá làm hội trưởng. Năm 1940, xây dựng chùa Tỉnh Hội Phật Học trên đường Đồng Khánh, phường Lạc Đạo, Phan Thiết. Năm 1944 phong trào chấn hưng Phật giáo nở rộ khắp nước cũng như tại Bình Thuận. Năm 1948 hội Tăng già Bình Thuận được thành lập, có trụ sở tại chùa Linh Thắng-Lạc Đạo. Năm 1950 thành lập gia đình Phật tử Bình Thuận. Năm 1955 mở trường trung tiểu học tư thục Bồ Đề tại góc đường Nguyễn Du-Triệu Quang Phục, Phan Thiết. Năm 1958 xây chùa Vạn Thiện tại ngã ba Trần Hưng Đạo-Nguyễn Hoàng, phường Phú Trinh, là cơ sở của giáo hội tổ chức các khoá tu học Phật giáo. Cùng năm có hoà thượng Thích Giác An từ miền nam tới lập Hệ phái Khuất Sĩ Bình Thuận và dựng Tịnh Xá Ngọc Cát trên Động Làng Thiềng, phường Đức Nghĩa, Phan Thiết. Năm 1962, hòa thượng Thục Châu Vĩnh Thọ đúc tượng Tam Thánh gồm Phật Di Lặc, Phật Bà Quan Âm và Phật Thích Ca nhập niết bàn. Cùng năm, hòa thượng Thích Hưng Từ ở Phú Yên vào lập chùa Linh Sơn Tánh Linh-Bình Tuy. Năm 1964 thành lập ban đại diện Giáo Hội PGVNTN-Bình Thuận.

Ngày 20-4-1975 Việt Cộng cưỡng chiếm toàn tỉnh Bình Thuận và thị xã Phan Thiết, đồng thời cũng chiếm hết chùa và trường Bồ Đề cùng các cơ sở của tỉnh hội Phật giáo Bình Thuận. Ngày 29-12-1981 giải tán ban đại diện giáo hội Phật Giáo VNTN tại Bình Thuận, để lập Phật giáo quốc doanh Thuận Hải, bao gồm ba tỉnh Bình Thuận-Bình Tuy và Ninh Thuận. Tháng 4-1992, bỏ Thuận Hải và lập lại hai Tỉnh Ninh Thuận cùng Bình Thuận-Bình Tuy, Phật Giáo Bình Thuận quốc doanh cũng phân hai cho tới ngày nay.

Từ năm 1991, sau khi thành trì cọng sản đệ tam quốc tế tại Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước trên thế giới sụp đổ, Việt Cộng vội vàng mở khẩu, trải thảm đỏ đón Mỹ và tư bản trắng, đỏ cùng Tàu Cộng... vào đầu tư kiếm tiền nuôi miệng và nuôi đảng. Người Việt tị nạn cọng sản gốc Bình Thuận, từ mọi nơi trên thế giói nhưng đông nhất là tại Hoa Kỳ, ào ạt gửi tiền về xây dựng và trùng tu lại những nơi chốn tôn nghiêm, mà Việt Gian-Việt Cộng Bình Thuận đã phá hủy khi chúng từ rừng vào thành, thậm chí còn lấy một vài chốn tôn nghiêm như Làng Đảng Bình, Vạn Hiệp Hưng...làm nhà tạm trú cho cán bộ và lò sát sinh mổ thịt gia súc. Đồng tiền của Việt kiều hải ngoại cùng viện trợ nhân đạo của thế giới, một phần lớn lọt vào áo bốn túi trong bộ đại cán hay chiếc xắc cốt kè vai của cán ta, nhưng vẫn còn tô trét được bộ mặt son phấn của phố thị và chùa chiền, đình làng, miếu vạn. Ngoài ra để cho mọi người quên những phiền lụy chết mòn người, vì đói ăn và đói tự do đời sống, đảng thả giàn cho tất cả đi chùa, mở hội, tụng kinh, cúng Phật nhưng phải tuân theo lệnh các sư sãi xếp, thuộc Phật giáo quốc doanh, nếu không thì có tự thiêu cũng bị bỏ tù và phạt người thân tiền chết vì ngu. Chưa hết, để đưa Phật giáo trở lại thời kỳ đứng bên lề vỗ tay coi hát như trong quá khứ, mà thực dân Pháp và bọn quan lại bù nhìn của triều đình Huế đã làm, Việt Cộng nửa nhắm nửa mở, hô hào dân chúng BT-PT trở lại con đường đồng bóng, chầu văn và làm bạn với người cõi âm.

Bình Thuận ngoài là chốn rừng tiền biển bạc, còn là một địa phương sản sinh nhiều nhân tài kiệt hiệt trong mọi lĩnh vực, tiếp nối qua bao đời. Trong lĩnh vực tôn giáo cũng vậy, tuy Phật giáo Bình Thuận có được như ngày nay là nhờ công đức vun bồi của các vị hòa thượng, thiền sư từ hai tỉnh Phú Yên và Gia Định, nhưng Bình Thuận về sau cũng có nhiều vị Sư nổi tiếng tài đức như quý hòa thượng Thanh Kế Huệ Đăng, Thanh Nguyên Huệ Cẩn... là đệ tử của Tổ Thông Ân Hữu Đức tại chùa Linh Sơn Trường Thọ.

Ngày 4 -8-1963, đại đức Thích Nguyên Hương, tên thực là Huỳnh văn Lễ, sinh năm 1940 tại Tuy Phong, Bình Thuận, trụ trì chùa Bửu Tạng-Phan Thiết, đã tự thiêu tại đài chiến sĩ Phan Thiết. Hiện có nhiều nhà tu hành tài đức vẹn toàn còn sống tại quê nhà như Hòa thượng Thích Chơn Thành thuộc Chùa Tỉnh Hội và Hòa thượng Thích Huệ Tánh, nguyên Hiệu trưởng trường trung học tư thục Bồ Đề Phan Thiết trước tháng 5-1975 và nay là hòa thượng trụ trì chùa Phật Quang, Hưng Long. Nối tiếp truyền thống đạo đức của cha ông, Phật giáo hải ngoại hiện có ba danh tăng là hòa thượng Thích Đức Niệm, Thích Minh Tâm và Thượng Tọa Thích Quảng Thanh, cả ba vị đều sinh quán tại Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.

* HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NIỆM:

Tên thật là Hồ Đắc Kế, pháp danh là Nguyên Công-Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, sanh tại làng Thanh Lương, Hòa Đa, Bình Thuận. Xuất gia năm 13 tuổi, thuộc dòng Lâm Tế đời 44. Đã tốt nghiệp cao đẳng Phật học năm 1962 tại Phật học đường Nam Việt, Cử nhân văn khoa, cao học năm 1972, tiến sĩ văn chương và triết học 1976.

Tại VNCH trước năm 1975, hòa thượng đã từng giữ nhiều chức vụ quan trong như Hiệu trưởng trường Trung học Bồ Đề tại Chợ Mới, Long Xuyên 1966-1969, Chánh Đại Diện GHPG tỉnh Gia Định, Giám đốc trường trung học Bồ Đề Bình Dương .Năm 1979 hòa thượng vượt biển tị nạn cọng sản tại Đài Loan và sang định cư tại Hoa Kỳ và là Phó Viện trưởng Viện đại học Đông Phương kiêm Giám đốc Phật học viện Quốc tế tại Hoa Kỳ. Năm 1981 thành lập Ấn quán Ananda. Năm 1988 là Chủ tịch điều hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ. Năm 1992 Chánh văn phòng Hội đồng đại diện..

Tuy nhiên nhắc tới hòa thượng Thích Đức Niệm, là phải nhớ tới tài năng lỗi lạc, tri thức uyên bác nhất là trong lĩnh vực địch thuật, được đánh giá là những tác phẩm lớn của thời đại như Phật pháp yếu nghĩa (1988), Câu xá luận cương (1985), Kinh Bảo Tích giảng giải (1986), Tại gia Bồ Tát giới (19989), Lược truyền tiền thân Đức Phật (1988), Tịnh Độ đại thừa tự tường luận (1990), Phương pháp cải đổi vận mạng (1991), Pháp ngữ lục (1991), Kinh A Nan Vãn Phật cát hưng (1994), Kinh Kim Cang bát nhã giảng luận (1994), Tâm Kinh yếu giải (1998)……..

Tóm lại qua 47 năm nương náu cửa thiền, tu đạo cũng như giữ nhiều chức vụ quan trong về giáo dục và trên hết là tác giả cũng như dịch giả một số kinh sách Phật giáo đồ xộ, quả là một công trình hiếm có, chẳng những làm rang danh người Bình Thuận, mà còn lưu danh vạn niên trong Phật sử Việt Nam. Hòa thượng viên tịch tại North Hill, nam California, Hoa Kỳ ngày 21-3-2003 tức 19 tháng 2 năm Quí Mùi, thọ 67 tuổi, để lại sự thương tiếc trong lòng mọi người.

* HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TÂM:

Hiện trụ trì tại chùa Khánh Anh, Pháp Quốc. Khởi công xây cất lại từ năm 1996, do tiền của cộng đồng người Việt tị nạn khắp thế giới đóng góp, qua uy tín của hòa thượng Thích Minh Tâm, sinh quán tại Thanh Lương, Hòa Đa Bình Thuận.

Sau khi hoàn thành, chùa Khánh Anh sẽ trở nên độc nhất tại Âu Châu, với tầm vóc rộng trên 3000 m2, nhờ vậy thị xã Evry sẽ có hàng ngàn du khách và tín đồ Phật giáo tới tham quan cũng như hành hương thường trực.

Đây chẳng những là một cơ sở tôn giáo mà còn là trung tâm hội thảo, diễn thuyết với phòng thông tin và các sinh hoạt văn học, nghệ thuật. Chùa trong tương lai, sẽ là trụ sở của Giáo Hội Phật Giáo VNTN hải ngoại tại Âu Châu, cũng là trường đào tạo tăng ni, nơi hội ngộ của 30.000 phật tử vùng IIe-de-France và 60.000 toàn nước Pháp.

Chùa Khánh Anh ở phía nam Paris, nằm trong thị trấn Evry giữa rừng nhà thờ Thiên Chúa giáo, Tin Lành và các thánh đường Hồi giáo, Do Thái..ngôi chùa được coi như thủ đô tinh thần của người tị nạn trên đất Pháp và Âu Châu. Thành quả trên trước hết do công quả của đồng bào nhưng đầu tàu là hòa thượng Thích Minh Tâm, một vị danh tăng rất nổi tiếng ngay từ lúc còn ở trong nước.

* THƯỢNG TỌA THÍCH QUẢNG THANH:

Tên thật là Dương Thanh Tùng, sinh năm 1951 tại Thanh Lương, Hòa Đa, Bình Thuận. Hiện là Tổng Vụ Trưởng Hoằng Pháp, Giáo Hội Phật giáo Việt Nam hải ngoại, tổng thư ký Đặc san Trúc Lâm của Phật Giáo, Viện chủ chùa Bảo Quang, tọa lạc tại thành phố Santa Ana, miền nam tiểu bang CA-Hoa Kỳ.

Ngoài danh tiếng của một vị lãnh đạo tinh thần qua các công tác tù thiện xã hội như thực hiện thường trực bữa cơm tình thương hàng tuần cho những người nghèo không nhà cửa,lập đàn tràng cầu siêu cho các thuyền nhân tử nạn trên biển đông, hằng năm vào rằm tháng bảy, mở lớp dạy chương trình Việt ngữ..Thượng Toa còn được đời biết tới qua nhà nghệ sĩ THI, HỌA, BONSAI CÂY KIỂNG.. nổi tiếng THANH TRÍ CAO có nhiều bài viết, nhất là thơ phổ nhạc đăng trên nhiều tờ báo Việt Ngữ xuất bản tại hải ngoại

Bước vào thế giới nghệ thuật của nhà nghệ sỹ Thanh Trí Cao, qua các tác phẩm danh tiếng bao gồm nghệ thuật cắm hoa, các bức tranh sơn dầu, nhiều non bộ..từng được tham dự trong các cuộc triển lãm quốc tế, tổ chức ở Hoa Kỳ.

Trong thế giới thi ca, nhà thơ đã cho ra đời nhiều thi phẩm như Trăng ngủ trong mây, Trên dòng tử sinh, Hương vị chân tâm và khoắc áo chân không..trong đó có nhiều bài thơ nổi tiếng đã được phổ nhạc như Mẹ là Phật, Cám ơn Phật và nước mắt mẹ tôi.

Thông thường người ta hay nghĩ rằng các nhà tu hành khi làm thơ hay chọn đối tượng là sự vô tâm. Nhưng đó là một suy nghĩ sai lầm vì bản chất thật của thơ không bao giờ vô tâm, nhất là thơ của Thanh Trí Cao luôn là gió tự do và gió thì không thể ở ngoài trời. Thơ còn là biển nhất là thơ của Thanh Trí Cao luôn như sóng gào to đòi chân lý và tình thương nổi sóng nên sóng không thể ở ngoài biển. Từ đất mọc lên thơ, tạo thành hơi thở phập phồng cho trái tim người, vậy sao nói đến thơ vô tâm hay hữu tâm"

Đi vào thế giới thơ của nhà thơ qua các chặng đường từ gió, sóng và đất trong các thi phẩm như : giấc ngủ trong mây, trên dòng tử sinh rồi Hương vị chân tâm, đọc ta có cảm tưởng như bước vào một thế giới chân, thiện, mỹ. Nhà thơ nghệ sỷ trong trái tim người tu hành đã xuất thần rất độc đáo khi phối hợp đạo-đời hay đúng hơn cái chất của vô tâm và hữu tâm..để viết lên con người thực của chính mình trong cái thế giới ta bà lẫn lộn giữa thực và hư, trong sự có không không có, con đường đi tới của chân lý và bản ngã vô thường.

Thơ là hồn, từ nhạc, màu sắc..đọc là cảm nhận ngay cái hương thơ thiền viện thoang thoảng khắp nơi, từ một thế giới riêng được thi sĩ Thanh Trí Cao ý vị bắc một nhịp cầu ra cánh cửa bên ngoài, khiến cho ta chơí với không biết đâu là thơ với họa:

'tôi tìm chân tướng trong lời kinh

tiếng kinh tụng niệm bỏ quên mình

chiếc lá vàng rơi bay lãng đảng

một bông hoa dại đứng lặng thinh..'

Giữa đạo-đời hay người và thơ, thật ra chẳng có gì để ngăn cách ngoài cái tâm, một nơi chốn mà ai cũng lâng lâng phiêu bồng, có tơí như không, có về có ở cũng chẳng biết là ở hay về nơi nào.

'Vai mang cả khối sơn hà

cuối đường ta vẫn hỏi ta phều bồng ..'

Mới nay lại được đọc ' Khoắc áo chân không ' thi phẩm thứ năm của nhà thơ, tiếng lòng của nhà nghệ sỷ như đã vượt thời gian và không gian để kết thành một đài sen hương sắc, dù chỉ là những mảnh vỡ của chân không hay nói đúng hơn chính là cái tâm của người tu đạo, không thao thức, không huyền thoại cũng không cần cứu cánh vì chân, thiện, mỹ chính là cõi trời đất mông mệnh tận cùng.

Tóm lại Thượng tọa Thích Quảng Thanh qua nhà thơ Thanh Trí Cao, dù có nhìn dưới một lăng kính nào chăng nửa, ta cũng chỉ thấy một tinh thần Phật học luôn hàm ẩn cái tâm bát nhã hy sinh, có trách nhiệm của một công dân trước niềm đau thương của đất nước và dân tộc, luôn thể hiện cuôc đời hoà ái, đã phá ngả phá, ngã dục, trung hiếu, đạo đức song toàn.Được nhắc tới Thanh Trí Cao trong tác phẩm của mình, quả là một hạnh phúc và hãnh diện cho người Bình Thuận.

3- ĐÀI TƯỞNG NIỆM NGƯỜI VƯỢT BIỂN TẠI CHÙA BẢO QUANG Ở SANTA ANA, CA:

Vào đêm 29 tháng chạp năm Ất Dậu, Chùa Bảo Quang tọa lạc ở Santa Ana, miền Nam CA, đã tổ chức lễ khánh thành thành Tượng Đài Thuyền Nhân Tị Nạn Cọng Sản VN, dù công trình chỉ mới hoàn thành chừng 70% tổng thể của dự án. Sở dĩ phải làm như vậy, vì Ban Tổ Chức muốn tạo dịp nhân Tết Nguyên Đán Bính tuất sắp tới, để đồng hương nhất là những gia đình có thân nhân bạn bè bị chết thảm trên đường vượt biển,có nơi tưởng niệm người quá cố.

Đây là một công trình vô cùng ý nghĩa, được manh nha khởi xướng từ năm 1997, sau khi Đàng tràng siêu độ thuyền nhân, được thiết lập tại thành phố Monterey Park, California. Công trình được thực hiện bởi Thượng Tọa Thích Quảng Thanh, tức nhà thơ Thanh Trí Cao, viện chủ chùa Bảo Quang cũng là Giam đốc Trung tâm Văn hóa Phật Giáo Việt-Mỹ Phụng Sự Xã Hội. Ngoài ra còn có sự góp sức của nhiều Chư Tăng, Phật Tử cũng như các vị ân nhân, hảo tâm Mạnh Thường Quân, trong Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cọng Sản Hải Ngoại như Nhà thơ, nhà báo Ái Cầm-Thái Tú Hạp, Ca Nhạc Sĩ Việt Dũng, Ô Bà Bác sĩ Lê Hồng Sơn-Thu Thủy, Giám đốc Đài Phát Thanh Radio Bolsa là Chí Thiện-Minh Phượng, Luật sư Từ Huy Hoàng, Kiến trúc sư Bạch Hồng, Bác sĩ Ngô Phùng Hỷ, Ký giả Khúc Minh, Kỷ sư Tâm Đan, Điêu khắc gia Vi Vi..Trong số các vị trên, kể cả Thượng Tọa Thích Quảng Thanh..đều là những thuyền nhân, trốn chạy chế độ bạo tàn khát máu cũa VC, may mắn được sống sót trên đường vượt biển tại Đông Hải, để tới được nẻo tự do, với cuộc sống ấm no hạnh phúc hôm nay.

Ai cũng biết bất cứ chùa Phật giáo nào, dù ở trong nước hay hải ngoại, những biểu tưởng được chấp nhận giống như một giáo qui, khi kiến trúc chùa, phần nhiều đều tôn trong theo tập quán có tự ngàn xưa. Do đó, Thượng Toạ Thích Quảng Thanh cũng không thể vượt ra ngoài tập tục cũ. Vì vậy đề án xây dựng Chùa Một Cột, tại khu vực Trung tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Phụng sự Xã Hội Việt-Mỹ, tức là Chùa Bảo Quang, đã được chấp thuận từ lâu, vì đây là một biểu tượng có tính cách Văn Hóa Cổ Truyền VN.

Trong lúc Chùa sắp bắt đầu công trình, thì Thượng Tọa Viện Chủ đã nhận từ Ủy Ban Xây Dựng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân VN, một Pho Tượng Thuyền Nhân với thỉnh cầu đặt tại Trung Tâm Văn Hóa. Đồng thời Ô.Bà Thái Tú Hạp-Ái Cậm cùng các Vị trong Ùy Ban Xây Dựng Tượng Đài Thuyền Nhân, đã tiếp xúx với Thượng Tọa với mong muốn được xây dựng Đài Tưởng Niệm trong khuông Viên của Chùa Bảo Quang.

Là một nhà tu nhưng luôn ý thức rõ ràng về hai chử đạo-đời, trách nhiệm cũng như bổn phận của người dân nước Việt, nên cuối cùng Thượng Tọa Thích Quảng Thanh đã quyết định chọn phương án 'Đài Tưởng Niệm thuyền Nhân' , vì cho đó là một công đức vô cùng ý nghĩa, có tính cách lịch sử cũng như đạo pháp, nói chung đạo đời đều trọn vẹn. Do tâm đắc vì việc làm vô cùng hệ trọng và ý nghĩa trên, nên trong ngày khánh thành Tượng Đài, Thượng Tọa đã tỏ ra vui mừng khi mọi việc sắp hoàn mãn một cách tốt đẹp.

Những ngày sắp tới, công tác vẫn còn tiếp tục như dựng bia đá đen khắc tên các thuyền nhân tử nạn trên biển, tu bổ lại các công trình để xứng đáng là một trong những biểu tượng cao qui của Người Việt Hải Ngoại, như chúng ta đã thưc hiện Đài tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH vừa qua, cũng tại Miền Nam CA, Hoa Kỳ.

Bổng thấy thấm thía vô cùng, khi nhớ lại câu nói của nhà cách mạng vĩ đại trong thế kỷ XX là Phan Bội Châu "Tòng Lai Quốc Dân Sở Dĩ Suy Đồi, Chỉ vì Hai Nguyên Nhân: BỤNG ĐÓI VÀ ÓC ĐÓI" . Từ năm 1930-2005, cọng sản VN đã đấu tranh đẫm máu, giết hại triệu triệu người, cũng chỉ muốn đạt cho được mục đích là đưa Dân Tộc vào con đường cách mạng vô sản, bằng thống trị ngục tù, bằng gầy mòn đói khát., bằng áp chế dối gian. Nhưng tất cả ngày nay đã trở thành những chiếc đinh rỉ, đóng cứng chiếc quan tài đỏ, trong đó có chứa bao triệu oan hồn VN, kể cả những người đã chết đói năm Ất Dậu 1945,những người sinh bắc tử nam, những thuyền nhân chết trên biển. Tất cả là những nhân chứng, bia miệng ngàn đời bôi đen VC trong dòng sử dân tộc.

Lúc nào cũng hô hào hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng kể cả người chết cũng bị dầy mồ, phá bia kỷ niệm, thì thử hỏi người sống làm sao yên được khi phải đối mặt với VC" -/-

Xóm Cồn

Tháng Giêng 2006

MƯỜNG GIANG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.