*
Một nhóm thuyền nhân Việt Nam vốn đã được chấp nhận cho tÿ nạn sau khi đến Úc hai năm trước đây vừa lên tiếng tố giác rằng gia đình họ ở quê nhà Việt Nam đang bị chế độ cộng sản tại đấy trù dập vì một số giới chức thẩm quyền thuộc chính phủ liên bang Úc đã giao cho CSVN những tài liệu mật về họ (confidential information on their cases).
Nhiều tổ chức Việt Nam tại Úc đã lên tiếng tố cáo chính phủ liên bang quÿ lụy (toadying) bọn cai trị độc tài ở Hà nội để có thể giữ vững mối quan hệ song phương. Theo một số tài liệu được CĐNVTD/UC sử dụng luật Tự Do Thông Tin (Freedom of Information laws) để thu thập thì chính phủ liên bang đã từng bày tỏ sự lo ngại về hậu quả của chuyện làm phật lòng nhà nước CSVN.
Nhiều viên chức chính phủ lo ngại rằng việc 54 người tầm tỵ từ Việt Nam đến Úc trên chiếc Hào Kiệt vào năm 2003 và bị giam cầm trên đảo Christmas sẽ “ảnh hưởng đến mối quan hệ với CS Việt Nam”.
Một tài liệu do một viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao và Ngoại Thương (Department of Foreign Affairs & Trade - DFAT) soạn thảo cho rằng các đơn xin tÿ nạn của những thuyền nhân này có thể “làm tổn thương quan hệ song phương và phương hại đến khả năng hoạt động của các cơ quan đại diện của chúng ta tại Việt Nam”.(*)
Một công hàm khác từ một viên chức của Bộ Di Trú yêu cầu nhân viên bộ ngoại giao “báo cáo với giới thẩm quyền Việt Nam về những tiến triển của vụ việc này”.(*)
Các vị đại diện của cộng đồng Việt Nam cho rằng những công hàm này là bằng chứng cho thấy chính phủ Úc đã “mách lẻo” về những người muốn trốn thoát khỏi Việt Nam.
Ô. Đoàn Việt Trung, Phát ngôn nhân của CĐNVTD/UC, nói: “Chính phủ Úc đã đặt các quan hệ ngoại giao và kinh tế với Việt Nam lên trên những nỗi khổ cá nhân (của những người tÿ nạn). Rõ ràng là Úc xem trọng vấn đề thương mãi với Việt Nam hơn là (tính mạng của) những người muốn đào tÿ”. (*)
Trong một lá đơn đề ngày 8/8/05 đệ nộp cho một cuộc điều tra của Thượng Viện, CĐNVTD/UC đã tố giác ông Ian Lincoln, cựu đại sứ của Úc ở Hà Nội, trong lúc là thành viên của ủy Ban Tái Duyệt Đơn Xin Tÿ Nạn (Refugee Review Tribunal - RRT), đã chuyển giao cho nhà nước CSVN các tài liệu mật về những người trên thuyền Hào Kiệt. Tuy nhiên, ông Lincoln phủ nhận những lời tố giác này.
Được biết, Ian Lincoln là đại sứ Úc tại Hà Nội từ 1986 đến 1988. Trước đó, ông đã từng nắm giữ nhiều chức vụ khác nhau trong bộ Ngoại Giao và đã từng nhận lãnh công tác ở Tân Gia Ba, Ghana và Pháp trước khi được cử làm Tổng Lãnh Sự ở Tân Đảo (New Caledonia) vào năm 82-83. Ông cũng nắm giữ nhiều chức vụ khác có trách nhiệm hoạch định chính sách (policy position) tại bộ Ngoại Giao ở Canberra. Ông được bổ nhiệm làm thành viên toàn thời của RRT từ tháng 1/7/2002 đến 30/6/2004.
Theo ký giả Padraic Murphy thì cách đây 15 năm, ông Lincoln đã bị cho là một mối nguy cơ về an ninh tình báo (security risk) sau khi ông bắt đầu mối quan hệ với một thiếu niên Việt Nam trong lúc làm đại sứ tại Hà Nội.
Những mối quan ngại về vấn đề an ninh này đã được nhân viên bộ Ngoại Giao nêu lên từ năm 1991, và được công khai hóa qua cuộc điều tra của quốc hội về những lời tố cáo rằng trong bộ Ngoại Giao Úc có những tên ấu dâm. Bản báo cáo được nữ luật sư Pam O’Neill soạn thảo và được đệ trình trước quốc hội vào tháng 5/1997.
Tuy bản báo cáo không nêu đích danh ông Lincoln mà chỉ cho ông một bí danh là “H”, nhưng nó phân tích thật tỉ mỉ phương cách mà bộ Ngoại Giao đối phó với mối quan hệ giữa ông Lincoln và một thiếu niên 16 tuổi mà ông gặp tại một công viên gần tư gia của ông ở Hà nội năm 1987. Bản báo cáo cho biết ông đã bảo lãnh cậu thiếu niên đó sang Úc vào năm 1990, thời điểm mà cả hai người đều thừa nhận rằng mối quan hệ của họ trở thành mối quan hệ tình dục.
Bản báo cáo đã nặng nề chỉ trích bộ Ngoại Giao vì bộ Ngoại Giao có vẻ chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa ông Lincoln và cậu thiếu niên này về những hậu quả ảnh hưởng đến an ninh tình báo (security implications) mà thôi. Bản báo cáo cho biết nếu vào thời điểm ấy (1990-91) bộ Ngoại Giao tổ chức “một cuộc điều tra chi tiết hơn về những vấn đề liên quan đến hạnh kiểm chức nghiệp” xuất phát từ mối quan hệ này thì có lẽ “tốt hơn”.
Trong một biên bản được bản báo cáo phân tích kỹ lưỡng thì một chuyên viên đặc trách thẩm định thẩm quyền được đọc tài liệu (security clearances) đã trình bày những mối quan ngại của mình lên với thượng cấp. Ông viết: “Theo quan điểm của tôi thì qua hành động của chính ông ta (H) đã tạo nhiều mối nghi ngờ về sự thích hợp của ông để nắm giữa chức vụ có quyền đọc tài liệu Tối Mật. Tôi đưa ra sự xét đoán này dựa vào sự thật là (trong lúc làm đại sứ tại Việt Nam) ông ta (ông Lincoln) có vẻ như đã bắt đầu một quan hệ tình dục đồng tính luyến ái với một thiếu niên địa phương 16 tuổi. Đây là một điều trái ngược hoàn toàn với những chỉ thị về bảo an, và là một thái độ không thể nào chấp nhận được từ một người Chỉ Huy Trưởng Cơ Sở (Head of Mission)”.
Khi được bà O’Neill thẩm vấn thì viên chức cao cấp của bộ Ngoại Giao đặc trách an ninh cho biết ông ta chỉ để tâm lưu ý đến những thẩm định về bảo an của ông Linoln hơn là về sự đúng đắn thích hợp (propriety) của mối quan hệ ấy. Ông nói: “Vấn đề then chốt để xét đoán về sự quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia của vụ việc này là: Liệu mối quan hệ ấy có làm phương hại đến viên chức có thẩm quyền đọc tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia hay không" Liệu nó có dẫn đến việc (ông ta bị) làm áp lực đe dọa (blackmail) hay những việc tương tự hay không"”
Viên chức này cũng nói thêm: “Không có vấn đề an ninh quốc gia nào dính líu vào (vụ việc này) ngoại trừ vấn đề ông ta (ông Lincoln) lẽ ra phải thông báo cho chúng tôi vào thời điểm mà mối quan hệ như thế hiện hữu”.
Vào ngày 8/9/1995 thì hồ sơ về mối quan hệ này đã được chuyển giao cho cảnh sát liên bang điều tra. Tuy nhiên, giới thẩm quyền không thể truy tố được bởi vì chính người thiếu niên ấy nói rằng mối quan hệ của họ không biến thành quan hệ dục tính cho đến khi cậu lên 18 tuổi và đã định cư tại Úc.
Khi được phóng viên của The Australian liên lạc để phỏng vấn về vụ việc này thì ông Lincoln chỉ nói rằng những lời cáo buộc được nêu lên trong bản báo cáo hoàn toàn không đúng sự thực. Sau đó, ông yêu cầu phóng viên gởi fax cho ông những câu hỏi mà họ muốn hỏi về những vấn đề được nêu lên trong bản báo cáo cũng như những lời tố giác về việc tiết lộ tin mật, nhưng sau đó, luật sư của ông cho biết ông sẽ không trả lời những câu hỏi này.
Một viên chức của bộ ngoại giao cũng từ chối không bình luận về ông Lincoln với cớ rằng đạo luật bảo vệ riêng tư cá nhân (Privacy Act) không cho phép bô Ngoại Giao lên tiếng về ông Lincoln.
Trong khi đó thì rất nhiều người tÿ nạn trên chiếc Hào Kiệt - tất cả đều được cấp chiếu khán tÿ nạn (Temporary Protection Visa) mặc dù lúc đầu bị bộ Di Trú bác đơn - cho biết họ rất lo ngại về sự an nguy của người thân còn kẹt lại Việt Nam.
Kể từ khi cô Phan Thị Lý Lan, 18 tuổi, cùng mẹ vượt biên thì cha cô và bà nội cô ở Sàigòn bị thẩm vấn nhiều lần. Cô thuật lại với phóng viên của The Australian: “Họ bị nhiều rắc rối lắm. Tụi nó (viên chức nhà nước CSVN) tra vấn về mẹ tôi, vì sao bà bỏ đi, hiện giờ bà ở đâu" Gia đình tôi cho biết đời sống họ kém an toàn hơn xưa. Họ không thể đi làm và họ phải trả lời các câu hỏi trong một thời gian rất dài”.
Một người khác, anh Nguyễn Phú, hiện đang sống tại Sydney, cho biết anh không bao giờ có thể trở về Việt Nam được. Anh nói: “Nhà nước đã đến “viếng” cha mẹ tôi. Họ hỏi “thằng Phú đâu rồi"”. Họ biết rằng tôi không ưa cộng sản và tôi muốn dân chủ tự do.
Cựu thủ tướng Malcolm Fraser, người đã mở rộng vòng tay đón nhận hơn 20,000 người tÿ nạn từ năm 1975-1977 nói: “Tôi sẽ cảm thấy tởm gớm cùng cực nếu tôi nghĩ rằng công chức (Úc) đã thông báo chi tiết về người tÿ nạn cho nhà cầm quyền Việt Nam, thế nhưng, chính phủ (Howard) hiện nay thực sự tạo thật nhiều khó khăn, nếu không nói là tạo sự bất khả, để người ta có thể xin tÿ nạn tại Úc”.
Một phát ngôn nhân của Bộ Di Trú nói: “Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những luận điệu cho rằng nhân viên Bộ Di Trú đã vi phạm luật lệ về giữ bí mật (confidentiality)”.
Chú thích (SGT):
(*) Nhìn bề ngoài, Bộ ngoại giao Úc có hai khuynh hướng có vẻ trái ngược:
Một, những biểu hiện có vẻ hậu thuẫn chế độ CSVN của Bộ Ngoại Giao Úc: 1. Bộ Ngoại Giao Úc có văn thư phản đối việc Hội Đồng Thành Phố Fairfield chấp thuận cho CĐNVTD/NSW treo Cờ Vàng tại CabraVale Park. 2. Một tài liệu do một viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao và Ngoại Thương (Department of Foreign Affairs & Trade - DFAT) soạn thảo cho rằng các đơn xin tÿ nạn của những thuyền nhân Hào Kiệt có thể “làm tổn thương quan hệ song phương và phương hại đến khả năng hoạt động của các cơ quan đại diện của chúng ta tại Việt Nam”. 3. Một công hàm khác từ một viên chức của Bộ Di Trú yêu cầu nhân viên bộ ngoại giao “báo cáo với giới thẩm quyền Việt Nam về những tiến triển của vụ việc [thuyền Hào Kiệt] này”. 4. Trong khi chính phủ Mỹ, chính phủ các quốc gia Âu Châu thi nhau lên tiếng phản đối CSVN đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền, thì trái lại, Bộ Ngoại Giao Úc im lặng.
Hai, những biểu hiện có vẻ hậu thuẫn CĐNVTD, chống lại chế độ CSVN, của Bộ Ngoại Giao Úc: 1. Một nhân viên người Việt làm việc cho Bộ Ngoại Giao Úc, thường xuyên ra vô VN, lại có vẻ có thái độ, lập trường và hành động công khai chống chế độ VC và hậu thuẫn CĐNVTD. 2. Chấp thuận đề nghị của Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do LB, Bộ Ngoại Giao Úc đã áp lực buộc CSVN vào thế bị động, phải chấp nhận để Úc xuất cảng vô VN các văn hóa phẩm, trong đó có văn hóa phẩm của người Việt tại Úc.
Trên đây là một vài trong số nhiều biểu hiện có vẻ mâu thuẫn của Bộ Ngoại Giao Úc. Khi nói có vẻ mâu thuẫn, có nghĩa chúng ta chưa có đầy đủ bằng chứng để đi đến kết luận, trong hai loại biểu hiện có vẻ mâu thuẫn, loại nào là thực và loại nào là giả. Một khi đã biết rõ loại biểu hiện nào là thực, mâu thuẫn sẽ không còn, vì loại kia sẽ là giả để nhằm đánh lạc hướng dư luận và che đậy những sự thực bí mật bên trong. Có điều, giữa hai biểu hiện mâu thuẫn của một con người, biểu hiện nào công khai được phô trương ầm ĩ, thường là giả; còn những biểu hiện nào được che đậy rồi bị phanh phui, thường sẽ là thật. Hơn nữa, một người nếu có hai biểu hiện mâu thuẫn, một đằng là những hành động ngôn ngữ thể hiện con người đạo đức thật thà; và một đằng là những ngôn ngữ hành động thể hiện sự gian trá xảo quyệt, vô đạo đức, thì thông thường, biểu hiện thứ hai là bản chất. Dĩ nhiên, về mục đích, Bộ Ngoại Giao nói riêng và chính phủ Úc nói chung, luôn luôn theo đuổi lý tưởng phụng sự quyền lợi cho dân tộc Úc. Tuy nhiên, trong số đó, có những cá nhân vì không hiểu rõ bản chất của VC, hoặc vì bị một số thành phần trí thức thân cộng đầu độc, hoặc vì quyền lợi riêng tư,... đã chấp nhận chỉ điểm cho VC, làm ảnh hưởng đến uy tín của Úc và tình hữu nghị giữa hai dân tộc Úc Việt.