HANOI -- Chính phủ CSVN ra đề án giáo dục đào tạo tiến sĩ với ngân sách 14.000 tỷ đồng VN (tương đương 620 triệu đôla Mỹ), Thất bại thê thảm... Bộ Giáo Dục & Đào Tạo bị Kiểm Toán đòi trả tiền ngân sách, chỉ nộp lại được 50 tỷ đồng VN (tương đương 2.2 triệu đôla Mỹ).
Bản tin Zing nhan đề “Đề án 14.000 tỷ đào tạo tiến sĩ thất bại: Vì đâu nên nỗi?” ghi lời nhận xét từ PGS.TS Đỗ Văn Dũng rằng, đề án 911 thất bại do không tìm được người có đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài. Nghiên cứu sinh trong nước vừa học vừa làm, không đảm bảo chất lượng.
Kết quả Kiểm toán Nhà nước về đề án có kinh phí 14.000 tỷ đồng đào tạo giảng viên trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ đẳng giai đoạn 2010-2020 (đề án 911) cho thấy hàng loạt mục tiêu không đạt được. Kiểm toán Nhà nước kiến nghị về xử lý tài chính đối với Bộ GD&ĐT, thu hồi nộp ngân sách hơn 50 tỷ đồng.
PGS.TS Đỗ Văn Dũng - hiệu trưởng ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.SG - phân tích nguyên nhân thất bại của đề án và hướng đi tiếp theo cho việc đào tạo tiến sĩ, trích:
“Nhiều học viên theo đề án 911, 322 hay một số đề án khác có tình trạng chung là không đạt chuẩn kỹ năng, có đầu vào tiếng Anh thấp khi ra nước ngoài học tập.
Để viết được báo cáo và làm nghiên cứu, học viên cần trình độ Ielts 7.0. Điều này dẫn đến việc nhiều nghiên cứu sinh kéo dài thời gian hoặc không hoàn thành học tập.
Như vậy, vấn đề lớn nhất của đề án 911 là là không tìm được người đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài. Những kinh nghiệm của nghiên cứu sinh và môi trường làm việc trong nước không đáp ứng được yêu cầu, họ đến nơi công nghệ tiên tiến, có thể bị sốc. Một thực tế là gần như 99% nghiên cứu sinh phải thay đổi đề tài so với thỏa thuận ban đầu với giáo sư.
Nghiên cứu sinh có thể mất 2 năm mới thích nghi được với đề tài mới, cộng thêm thời gian các môn học khác dẫn đến việc đào tạo tiến sĩ trong 3 đến 4 năm là không đủ.
Một số nghiên cứu sinh khác lại quá giỏi nên khi học xong họ ở lại luôn nước ngoài để làm việc.
Những năm 1990, Trung Quốc từng đưa 50.000 người ra nước ngoài học tiến sĩ nhưng không có ràng buộc yêu cầu phải trở về. Ai trở về, họ trọng dụng, còn nếu làm việc tại nước ngoài sẽ là những cây cầu nối Trung Quốc với các nền khoa học tiên tiến trên thế giới.
Bấy giờ, 90% người Trung Quốc học ở Mỹ làm việc cho nước sở tại. Họ chính là nguồn chuyển giao công nghệ về nước, làm nên các mối quan hệ hợp tác sau này.”
Còn giải pháp đề nghị?
Trả lời câu hỏi “Vậy hướng đi nào cho việc đào tạo tiến sĩ có chất lượng, thưa ông?” PGS.TS Đỗ Văn Dũng khuyến nghị:
“Chúng ta phải nâng cao chất lượng đầu vào của nghiên cứu sinh, nâng cao việc đào tạo tiến sĩ trong nước. Đây là vấn đề tiên quyết để tạo ra những tiến sĩ có chất lượng. Không thể vì không tuyển đủ chỉ tiêu để hạ chỉ tiêu tuyển sinh.
Các tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài cần chú trọng giải pháp đồng bộ, điều kiện để sau khi về nước, họ có môi trường để tiếp tục nghiên cứu, phát triển.
Điều quan trọng nữa là cần đảm bảo thu nhập cho tiến sĩ. Thực tế, lương hiện nay của người trình độ tiến sĩ chỉ khoảng 5-7 triệu đồng/tháng. Nhiều người chấp nhận bồi hoàn chi phí đào tạo cho các trường đại học để tìm cơ hội tốt hơn, thu nhập cao hơn.”
Bản tin Zing nhan đề “Đề án 14.000 tỷ đào tạo tiến sĩ thất bại: Vì đâu nên nỗi?” ghi lời nhận xét từ PGS.TS Đỗ Văn Dũng rằng, đề án 911 thất bại do không tìm được người có đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài. Nghiên cứu sinh trong nước vừa học vừa làm, không đảm bảo chất lượng.
Kết quả Kiểm toán Nhà nước về đề án có kinh phí 14.000 tỷ đồng đào tạo giảng viên trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ đẳng giai đoạn 2010-2020 (đề án 911) cho thấy hàng loạt mục tiêu không đạt được. Kiểm toán Nhà nước kiến nghị về xử lý tài chính đối với Bộ GD&ĐT, thu hồi nộp ngân sách hơn 50 tỷ đồng.
PGS.TS Đỗ Văn Dũng - hiệu trưởng ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.SG - phân tích nguyên nhân thất bại của đề án và hướng đi tiếp theo cho việc đào tạo tiến sĩ, trích:
“Nhiều học viên theo đề án 911, 322 hay một số đề án khác có tình trạng chung là không đạt chuẩn kỹ năng, có đầu vào tiếng Anh thấp khi ra nước ngoài học tập.
Để viết được báo cáo và làm nghiên cứu, học viên cần trình độ Ielts 7.0. Điều này dẫn đến việc nhiều nghiên cứu sinh kéo dài thời gian hoặc không hoàn thành học tập.
Như vậy, vấn đề lớn nhất của đề án 911 là là không tìm được người đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài. Những kinh nghiệm của nghiên cứu sinh và môi trường làm việc trong nước không đáp ứng được yêu cầu, họ đến nơi công nghệ tiên tiến, có thể bị sốc. Một thực tế là gần như 99% nghiên cứu sinh phải thay đổi đề tài so với thỏa thuận ban đầu với giáo sư.
Nghiên cứu sinh có thể mất 2 năm mới thích nghi được với đề tài mới, cộng thêm thời gian các môn học khác dẫn đến việc đào tạo tiến sĩ trong 3 đến 4 năm là không đủ.
Một số nghiên cứu sinh khác lại quá giỏi nên khi học xong họ ở lại luôn nước ngoài để làm việc.
Những năm 1990, Trung Quốc từng đưa 50.000 người ra nước ngoài học tiến sĩ nhưng không có ràng buộc yêu cầu phải trở về. Ai trở về, họ trọng dụng, còn nếu làm việc tại nước ngoài sẽ là những cây cầu nối Trung Quốc với các nền khoa học tiên tiến trên thế giới.
Bấy giờ, 90% người Trung Quốc học ở Mỹ làm việc cho nước sở tại. Họ chính là nguồn chuyển giao công nghệ về nước, làm nên các mối quan hệ hợp tác sau này.”
Còn giải pháp đề nghị?
Trả lời câu hỏi “Vậy hướng đi nào cho việc đào tạo tiến sĩ có chất lượng, thưa ông?” PGS.TS Đỗ Văn Dũng khuyến nghị:
“Chúng ta phải nâng cao chất lượng đầu vào của nghiên cứu sinh, nâng cao việc đào tạo tiến sĩ trong nước. Đây là vấn đề tiên quyết để tạo ra những tiến sĩ có chất lượng. Không thể vì không tuyển đủ chỉ tiêu để hạ chỉ tiêu tuyển sinh.
Các tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài cần chú trọng giải pháp đồng bộ, điều kiện để sau khi về nước, họ có môi trường để tiếp tục nghiên cứu, phát triển.
Điều quan trọng nữa là cần đảm bảo thu nhập cho tiến sĩ. Thực tế, lương hiện nay của người trình độ tiến sĩ chỉ khoảng 5-7 triệu đồng/tháng. Nhiều người chấp nhận bồi hoàn chi phí đào tạo cho các trường đại học để tìm cơ hội tốt hơn, thu nhập cao hơn.”
Gửi ý kiến của bạn