Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu giữa đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông, từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Rồi ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn ngợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
Tôi đã đọc hết bài thơ, chờ 5 giây không nghe bạn nói gì. Tôn trọng niềm xúc động của bạn, tôi cũng lặng thinh. Chúng ta không cần nói gì nữa vì nghe nhịp thở của nhau cũng như đang nghe nhịp thở của Trường Sơn. Ôi, Trường Sơn từng oằn mình gánh chịu bao mưa gió phũ phàng của đất trời, bao oan khiên vùi dập của lòng người vô minh, nhưng Trường Sơn vẫn sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt. Chúng ta có thể thấy ngay tại sao tác giả bài thơ lấy hình ảnh Trường Sơn làm bối cảnh. Trường Sơn là “xương sống” của giải đất hình chư S mà tiền nhân chúng ta đã đổ bao xương máu dựng nên và gìn giữ. Trường Sơn như người cha dũng cảm, như người mẹ nhu hòa luôn có đó, vì con và cho con. Nhưng người con là ai" đi đâu mà đi miệt mài thế" Chúng ta đã cùng lúc nhận ra người đó chính là chúng ta, là muôn triệu người Việt Nam đang quẩn quanh, thống khổ ngay trong lòng đất mẹ! Cùng với muôn triệu bóng đen âm thầm, lầm lũi đi giữa lòng quê cha đất mẹ mà sao như đi giữa âm ty" Sao phố thị ngột ngạt" Sao rừng sâu cạm bẫy" Sao suối cạn" Sao máu lệ tuôn tràn tức tưởi những con sông" Chỉ bởi một kẻ thù duy nhất. Kẻ đó tên là Vô Minh. Vì ngu si, vì tăm tối, kẻ mang tên Vô Minh đã chưa từng thấy được trời xanh, mây trắng, chưa từng nghe được gió chiều hát khúc thương yêu, chưa từng biết tận hưởng quà tặng tuyệt vời mà bông hoa ven đường đang trân trọng hiến dâng …… Thế nên, những kẻ vô minh đó đã ngỡ cái vô thường là thường, vô ngã là ngã, khổ là lạc, không là tịnh. Chính vì bị tam thược ràng buộc nên kẻ vô minh đã sợ hãi, đã cuồng loạn vơ vét ảo vọng, vùi dập, tàn phá những gì trên đường chúng đi. Chúng đã biến quê cha đất mẹ thành nhà tù vĩ đại, biến đồng bào ruột thịt thành những tù nhân không bản án, biến đồng xanh thành cỏ dại, biến cánh bướm mùa hè thành sâu mọt mùa đông. Chúng không ngại mà hiện nguyên hình Vô Minh vì đang có quyền sinh sát trong tay. Nhưng thương thay, quyền sinh sát đó là gì" Chúng thường nhìn chặng cuối của đời sống là sự chết mà không biết rằng CHẾT XỨNG ĐÁNG LÀ SỰ SỐNG BẤT DIỆT.
Tác giả bài thơ “Những năm anh đi” là nhân chứng suốt thời vô minh tàn độc đó. Đi giữa máu lệ oan khiên, người ấy thanh thản mà dũng mãnh, thầm lặng mà pháp loa vang dội, áo mỏng chân trần mà làm run rẩy binh đao vì người ấy đang mang hình ảnh thiền sư “thõng tay vào chợ” để cứu độ chúng sinh. Chính hình ảnh bình tâm thanh thản giữa chốn xôn xao đã giúp chúng sinh đang quằn quại thống khổ đạt được hạnh vô úy.
Khi không còn gì để sợ hãi thì dù nơi địa ngục ta vẫn nghe vang dội âm thanh núi rừng hợp tấu bản tình ca vô tận.
Bản tình ca này chưa từng rời nhịp bước đoàn lữ hành tự đốt đuốc trên đường tìm về Trung Đạo.
Tác giả bài thơ này chưa từng rời thế-gian-pháp.
Tự nguyện tải đạo cứu đời, ngài đã bước vào nhà Như Lai từ tuổi ấu thơ. Ngài là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, là vị Thiền-sư đang thõng tay vào chợ. Qua chính bản thân mình, Ngài đã và đang gửi một thông điệp đơn giản: “Không sức mạnh nào ngăn nổi âm thanh mênh mông vô tận trên không gian bát ngát. Đó là âm thanh của núi rừng hợp tấu.”
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Diệu Trân
Mùa Phật Đản 2005