Đầu tuần qua, hôm Thứ Hai 11, dư luận Việt Nam, Á châu và thế giới, đặc biệt chú ý đến nỗ lực hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ nhân chuyến thăm viếng New Dehli của Thủ tướng Bắc Kinh Ôn Gia Bảo. Vì chú ý như vậy nên có thể không để ý tới một liên minh khác đang thành hình giữa Liên bang Nga và Cộng hòa Liên bang Đức.
Nhân hội chợ Hannover tại Đức, Thủ tướng Đức Gerhard Schroeder đã gặp gỡ và đồng ý với Tổng thống Nga Vladimir Putin về tám chương trình hợp tác Nga-Đức. Schroeder còn phát biểu là Đức muốn tăng cường mối kết hợp song phương ấy và mở rộng ra mọi lãnh vực khác. Cùng ngày, tại cung Hyderabad của New Dehli, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cũng công bố một hiệp ước song phương gọi là "Chiến lược và Hợp tác cho Hòa bình và Thịnh vượng", trong đó hai bên đồng ý về 11 đề mục, như biên giới, hợp tác kinh tế, trao đổi quân sự, v.v… Cả bốn nước đều là cường quốc cấp vùng nên mối liên kết của họ tất nhiên ảnh hưởng đến quan hệ và quân bình chiến lược của các nước. Chúng ta nên tìm hiểu mục tiêu và hậu quả của hai vòng kết hợp này.
Liên bang Nga hiện gặp nhiều khó khăn ở cả bên trong lẫn vòng ngoại vi nên muốn có một đồng minh trong khối Âu châu. Mục tiêu là để cải tổ lại kinh tế, nâng cao khả năng kỹ thuật về sản xuất, chế biến, giao thông, năng lượng, v.v…. hầu chặn đà suy sụp trong khi đang bị phong trào "cách mạng nhung" bào mỏng vùng biên giới và gây phân hóa vào đến nội bộ (xin xem "Xẻ thịt gấu" của cùng tác giả trên cột báo này, số ra ngày 12 tháng Ba).
Đối diện, Liên bang Đức cần một nguồn cung cấp năng lượng vững bền liên tục và một thị trường đầu tư và xuất cảng. Đức cũng cần một "đối khỏa" - partner - trên bình diện chiến lược để củng cố vai trò của mình với các nước khác trong Liên hiệp Âu châu và với cả Hoa Kỳ. Trong quá khứ, Đức từng có mâu thuẫn và xung đột với Âu châu và thường kết hợp với láng giềng mạn Đông là Nga để đối phó với các đối thủ mạn Tây. Việc hợp tác Nga-Đức vì vậy không là mới lạ, nhất là khi Đức đang là chủ nợ lớn và biết rõ nỗi tuyệt vọng của Moscow.
Bên kia, Trung Quốc cần nguồn yểm trợ kỹ thuật mới và một đồng minh chiến lược để tăng cường kiểm soát biên giới và luồng vận chuyển năng lượng. Kết hợp với Ấn Độ, cường quốc có một tỷ dân, sẽ giúp Bắc Kinh mở rộng vai trò trong vùng Nam Á và gây ảnh hưởng trong mối quan hệ của mình với Pakistan và với các nước đang phát triển trên thế giới. Phần mình. Ấn Độ cũng muốn Bắc Kinh xét lại quan hệ thân hữu lâu đời với Pakistan, nhất là khi Trung Quốc là một thị trường lớn, một nguồn lợi kinh tế đáng kể. Việc hợp tác và hội nhập hai nền kinh tế đông dân nhất thế giới (bằng một phần ba dân số toàn cầu) sẽ tránh được những nỗ lực cạnh tranh tốn kém. Việc hợp tác ấy còn thu hẹp được ảnh hưởng khuynh đảo của Hoa Kỳ.
Yếu tố Hoa Kỳ có chi phối toan tính của bốn nước này.
Trên bản đồ của địa cầu, Đức là trụ cột của Âu châu, Nga là cường quốc vắt ngang lục địa Âu-Á, Trung Quốc là cường quốc Đông Á và Trung Á trong khi Ấn Độ là trụ cột của Nam Á. Cả bốn quốc gia đều muốn là đại cường cấp vùng và có tiếng nói mạnh hơn trên toàn cầu trong khi Hoa Kỳ đang là tiếng nói và sức mạnh thô bạo nhất.
Cho nên, thay vì chỉ hợp tác, nếu họ hội nhập được với nhau để vừa tránh cạnh tranh vừa lập ra những trụ đối trọng với Hoa Kỳ thì điều đó tất nhiên có lợi cho cả bốn nước, giúp họ tỏa rộng ảnh hưởng từ Tây Âu đến Viễn Đông, từ Đông Bắc Á xuống tới Nam Á và Dấn Độ Dương.
Trong quá khứ, Nga và Trung Quốc đều cố hợp tác - từ thời Liên bang Xô viết cho đến gần đây - nhưng hai nước thực sự vẫn nghi ngại nhau và còn lặng lẽ tìm cách lấn lướt nhau. Hơn ba mươi năm trước, Hoa Kỳ dưới thời Richard Nixon đã khai thác mâu thuẫn ấy để đẩy Liên xô vào thế bí. Ngày nay, Hoa Kỳ nhìn cả Trung Quốc và Liên bang Nga dưới con mắt khác và có thể vừa chặn đà bành trướng của Bắc Kinh vừa gây áp lực để Nga phải thay đổi, trở thành cường quốc hạng trung, dân chủ và cởi mở hơn, gần gũi với Tây phương hơn. Bốn mươi năm trước, Trung Quốc và Ấn Độ đã từng xung đột và trong nhiều thập niên, Bắc Kinh coi Ấn Độ là một đồng minh của Nga nên xiết chặt hợp tác với Pakistan, với sự hài lòng của Hoa Kỳ.
Ngày nay, tình hình quả là đã có đổi khác.
Tuy nhiên, có một điều không hề thay đổi là quan niệm của từng nước trong hai kế hoạch kết hợp này về quyền lợi và vị trí của mình. Liên bang Nga và Trung Quốc đều coi Đức hay Ấn Độ là cường quốc hạng nhì, không cùng vai vế. Kế hoạch hợp tác ấy vì vậy không có tính chất hoàn toàn bình đẳng. Nếu có thành thì hai cuộc hôn nhân này vẫn thiếu "môn đăng hộ đối'. Bắc Kinh còn coi Ấn Độ là nước đi sau trong việc cải cách và nếu có ưu thế về kỹ thuật, nhất là kỹ thuật điện toán, thì cũng còn phải học mình rất nhiều điều khác. Ấn Độ thì cho là Trung Quốc thiếu dân chủ và cũng có quá nhiều vấn đề lẫn tham vọng.
Trong buổi đầu của tuần trăng mật, các nước đều nói đến phần đồng ý nhiều hơn là dị biệt. Nhưng khi đi vào thực tế để thi hành thỏa ước, bất cứ vấn đề nào cũng có thể là vấn đề lớn.
New Dehli có thể tỏ ý khó chịu về mối quan hệ vẫn còn quá gắn bó của Bắc Kinh với Paskitan; Bắc Kinh thì than phiền việc New Dehli tăng cường hợp tác kinh tế và quân sự với Nhật Bản và nhất là với Hoa Kỳ. Đức sẽ phàn nàn là Moscow vừa bán dầu khí cho mình vừa mời gọi các khách hàng Âu châu khác, hoặc Nga than phiền là Đức hợp tác với Liên hiệp Âu châu và cả Hoa Kỳ để thổi lên phong trào dân chủ hoặc không chiều ý mình trong các kế hoạch đầu tư mà Moscow cho là ưu tiên.
Sự kết hợp ấy vì vậy chưa chắc đã là kết hôn. Chưa kể là Hoa Kỳ vẫn tỉnh táo theo dõi nội vụ để dùng đòn bẩy của mình làm cho tuần trăng mật này có khi là mật đắng.
Kết luận ở đây là mọi việc chưa ngã ngũ và so với ba chục năm trước, bang giao giữa các nước đã có nhiều thay đổi. Và sẽ thay đổi rất nhanh chứ chẳng đợi ba chục năm nữa mới thấy. Trong tinh thần ấy, người ta mới cần xét đến tương lai cơ chế Liên hiệp Âu châu - với vai trò tàn lụi của Pháp và Đức - hay việc cải tổ Liên hiệp quốc - chẳng hạn như ngoài năm nước "hậu chiến" là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an, Nhật hay Ấn Độ sẽ là nước thứ sáu" Ly kỳ….