NGUYỄN HỮU BÀI
(1863 - 1935)
Nguyễn Hữu Bài quê huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình theo đạo Công giáo lâu đời. Khi nhỏ, ông học nơi trường do tu sĩ Pháp giảng dạy.
Năm 1883, ông bắt đầu làm việc cho toà Khâm sứ Huế. Năm 1904, ông có chân trong tổ chức yêu nước Việt Nam Quang phục hội của cụ Phan Bội Châu. Năm 1908, thời vua Duy Tân, Nguyễn Hữu Bài lãnh chức Thượng thư Bộ công.
Năm 1912, Khâm sứ Pháp là Mahé đề nghị đào lăng vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Các quan lại trong triều đều im lặng, chỉ có Nguyễn Hữu Bài nhất quyết phản đối. Dân chúng đương thời cảm kích, nên có câu truyền tụng:
“Phế vua không Khả, đào mả không Bài”.
Năm 1923, thời vua Khải Định, Nguyễn Hữu Bài được thăng chức Thái phó, tước Võ hiển điện Đại học sĩ đứng đầu nội các. Ngày 6-11-1925, vua Khải Định mất, Bảo Đại đang du học. Khâm sứ Pháp là Lefoi nói: “Theo thỏa ước ngày 6-11-1925, thì Khâm sứ chủ tọa hội đồng Thượng thư có quyền ra nghị định để thi hành các việc”. Nguyễn Hữu Bài từ tốn nhưng đáp cứng rắn: “Thỏa ước ngày 6-11-1925, dùng tạm trong khi vua Bảo Đại đi du học, chứ không phải là hiệp ước nhất định. Việt Nam là một nước quân chủ, vua mới có quyền ra chỉ dụ để thi hành luật pháp mà thôi. Nam triều có trách nhiệm về sự thi hành chánh lệnh, quan Khâm sứ đại diện nước Pháp có quyền kiểm soát công việc hành chánh, Nam triều lâm thời chủ tọa trong buổi hội thương, còn Viện Cơ mật đã có Viện trưởng đại thần là người chủ tọa Hội đồng Thượng thư lẽ gì để quan Khâm sứ?!”.
Ngày 25-11-1925, Toàn quyền Pháp đòi Phụ Chánh Viện ký thỏa ước giao cho Khâm sứ Pháp các quyền hạn của Vua, như chọn các vị Thượng thư và bổ nhiệm các quan lại từ Tri huyện trở lên; ông và Thượng thư Trần Đình Bá phản đối Pháp quyết liệt.
Năm 1925, Phan Bội Châu mới về nước, Toàn quyền Varenne hỏi vị Thượng thư: “Các đoàn thể người Nam, Bắc đương sôi nổi yêu cầu xin ân xá cho Phan Bội Châu. Vậy ý kiến Nam triều như thế nào?”. Nguyễn Hữu Bài đáp: “Phan Bội Châu là người Việt, ở hải ngoại cổ động chống Pháp, nay chính phủ Pháp đã tha không bắt tội ông ta nữa thì thôi, Nam triều có nói gì đâu?” Varenne hỏi tiếp: “Phan Bội Châu về Huế, Nam triều đối đãi thế nào?” Nguyễn Hữu Bài lại đáp: “Phan Bội Châu, nguyên đậu Cử nhân nay ông cứ giữ địa vị của ông như cũ, Nam triều đối đãi với ông ta cũng như các ông Cử nhân khác ở Huế vậy, có gì mà lo đâu?!”.
Sau đấy, ông giữ chức Thượng thư Bộ Lại. Năm 1933, vua Bảo Đại trực tiếp tham chính, 5 vị Thượng thư nội các cũ đều bị bãi chức cùng lúc, 5 Bộ Thượng thư ấy gồm có: Bộ Lại, Bộ Hình, Bộ Binh, Bộ Lễ và Bộ Công.
Ông về hưu, vua Bảo Đại phong ông là cố vấn nguyên lão, mỗi khi vào hầu vua khỏi phải lạy. Ngày 10-7-1935, ông đến dự lễ tấn phong giám mục Hồ Ngọc Cẩn. Năm 1935, ông bị cảm, vào bệnh viện ở Phủ Cam (Huế) và từ trần ở đấy ngày 28-7-1935.
Nhà thơ Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn, đã làm bài thơ thất ngôn, ghi tên và chức vị của 5 Thượng thư bị bãi chức:
Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh.
Bài không đeo nữa xin dâng lại(1)
Đàn chẳng ai nghe khéo dở hình(2)
Liệu thế không xong binh chẳng được(3)
Liêm đành chịu đói lễ làm thinh(4)
Công danh như thế là hưu hỷ
Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh(5)
Cảm mộ: Thái phó Nguyễn Hữu Bài
Nguyễn Hữu Bài, luôn son sắt tâm!
Trung trinh giúp nước, thiết tha dân
Khó khăn triều chính, cùng lo lắng
Khi Pháp hăm he, chẳng ngại ngần!
_________
1 - Bài, Nguyễn Hữu Bài: Thượng thư Bộ Lại
2 - Đàn, Tôn Thất Đàn: Thượng thư Bộ Hình
3 - Liệu, Phạm Liệu: Thượng thư Bộ Binh
4 - Liêm, Võ Liêm: Thượng thư Bộ Lễ
5 - Đại, Vương Tứ Đại: Thượng thư Bộ Công!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn