HOÀNG CAO KHẢI
(1850 - 1933)
Hoàng Cao Khải tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Cử nhân năm 1868. Năm 1887, được bổ nhiệm quyền Tuần phủ Hưng Yên.
Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương. Nơi đây, ông đã đàn áp các lực lượng Nghĩa quân. Do công này, Pháp phong ông làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ.
Tháng 11-1894, Toàn quyền De Lanessan cử Hoàng Cao Khải lấy danh nghĩa đồng hương viết thư dụ Phan Đình Phùng. Khải viết “Nhà nước Bảo hộ khoan dung biết dường nào! Sẽ bảo toàn cho người ra thú được yên ổn vô sự”. Phan Đình Phùng viết thư khước từ: “Tôi thề quyết làm việc tôi làm cho tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm cho tôi thay lòng đổi dạ”. Khải cho dịch thư của cụ Phan ra tiếng Pháp, báo cáo lên Toàn quyền Pháp: “Bổn chức đã đem hết sự lợi hại để tỏ bày khuyên Phan Đình Phùng ra hàng thú, nhưng y vẫn tỏ ý hôn mê bất ngộ. Giờ xin Chánh phủ Bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ”.
Năm 1897, Pháp cho Hoàng Cao Khải về Huế, được phong chức Thượng thư Bộ binh, rồi làm Phụ chính đại thần thời vua Thành Thái. Các con của ông là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu đều làm tay sai cho thực dân Pháp.
Hoàng Cao Khải có viết một số tác phẩm, Chữ Nho: Việt sử kính, Việt Nam nhân thần giám, Việt sử yếu. Chữ Nôm: Đàn bà nước Nam, vịnh Nam sư.
Ông là người có học thức nhưng làm tay sai cho thực dân Pháp, phản dân, hại nước nên bị các sĩ phu đương thời khinh bỉ. Đồng bào xem ông như một con ngựa chứng lại để cho giặc cỡi rất đáng tiếc?!.
*- Thiết nghĩ: Những tên tay sai cho thực dân Pháp đã phản quốc hại dân, ở Nam Kỳ có Trần Bá Lộc, ở Trung Kỳ có Nguyễn Thân, ở Bắc Kỳ có Hoàng Cao Khải. Cả ba nhân vật này đã giàu sang một thời nhưng mang tiếng nhuốc nhơ muôn đời?!
Hoàng Cao Khải có viết một số tác phẩm, chữ Nho và chữ Nôm, nên Hoàng Cao Khải có thể liệt vào người có học thức và ông muốn lưu lại tiếng tăm cho hậu thế. Người xưa đã nói: “Mai cốt bất mai danh” Nghĩa là: Thi thể có thể chôn, nhưng tiếng tốt hay tiếng xấu thì còn mãi. Than ôi, Hoàng Cao Khải đã lầm, lưu lại tiếng tăm tốt mới được đời kính trọng, các thế hệ mai sau mới lưu luyến ghi tạc, chứ để lại tiếng xấu như ông thì ô danh muôn thuở?!!!.
Trong cuốn: La colonisation française en Indochine (Thuộc địa Pháp ở Đông Dương); Toàn quyền Đông Dương De Lanessan ghi về Hoàng Cao Khải: “Cần có biện pháp mới, nghĩa là phải làm sao cho dân bản xứ chống lại nhau. Tôi đã giao nhiệm vụ này cho Tổng đốc Hoàng Cao Khải, viên quan rất có nghị lực và đầy tham vọng”. Khải là thế đấy?!
Khi dân ở ấp Thái Hà (Hà Nội) xây “Trung liệt đền” để thờ các vị anh hùng: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... Khải lại bảo dân đổi chữ “Trung liệt” thành “Trung lương” để thờ cả Khải. Phan Điện là một nhà thơ đến Hà Đông dạy học, nghe chuyện trái tai đã đề vào tường một bài thơ độc đáo:
“Các cụ liều thân bỏ chiến trường!
Ai đem Trung liệt, đổi Trung lương?!
Thờ bên trung trực, bên gian nịnh
Thế cũng đền đài, cũng khói hương!
Thơm thúi lẫn nhau mùi tắc họng
Ngọt ngào đầu miệng lưỡi không xương
Nhà nho lại có thằng nào đó?
Luồn cúi vào ra nịnh cụ Hoàng!”
Năm 1919, Hoàng Cao Khải tổ chức lễ thọ 70 tuổi, nhân đó Báo Nam Phong số 22, tháng 4-1919 có thơ chúc thọ:
“Con cái một nhà hai Tổng đốc.
Pháp-Nam hai nước một công thần”.
Câu thơ này khen nhẹ để khéo léo chê, đã nói ra sự thật về bản thân và gia đình của Hoàng Cao Khải. Hai con trai ông là Hoàng Trọng Phu làm Tổng đốc Hà Đông, Hoàng Mạnh Trí làm Tổng đốc Nam Định cho quân xâm lăng Pháp?!.
Cảm hận: Hoàng Cao Khải
Hoàng Cao Khải, bán nước buôn dân!
Cúi mặt khom lưng, thứ bất nhân!
Tôi tớ ngoại xâm, sường sượng mặt!
Tay sai giặc Pháp, nhuốc nhơ thân?!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn