Hôm nay,  

Trong Căn Phòng Rưỡi (4)

25/12/200400:00:00(Xem: 4913)
Gửi L. K.
Joseph Brodsky
8
Căn phòng của chúng tôi, trần cao chừng mười bốn feet, có thể hơn. Cũng vẫn theo kiểu Moor cộng thêm những vết nứt rạn, những loang lổ, do ống nước từ những phòng phía trên dò rỉ xuống, nó biến thành một tấm bản đồ chi tiết thật chi li, thuộc về một siêu cường chưa từng hiện hữu hoặc một quần đảo. Có ba cửa sổ rất cao, hình vòng cung, qua chúng, chúng tôi có thể nhìn, chẳng thấy gì, ngoại trừ, ngôi trường trung học, ở bên kia con phố, nếu không nhìn từ cửa sổ chính, vốn còn được dùng như là lối ra bao lơn. Từ bao lơn, chúng tôi có thể nhìn dọc theo hết con phố, đúng kiểu phố St. Petersburg, cuối tầm nhìn, là bóng dáng đẹp vô song, của vòm cung nhà thờ St. Panteleimon, hay là, nếu nhìn về phía bên phải, là công trường lớn, ở ngay trung tâm của nó, là nhà thờ Cathedral of the Savior of Her Imperial Majesty’s Transfiguration Battalion.
Vào thời gian chúng tôi dọn tới kỳ quan Moor, tức Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, con phố vẫn còn mang tên Pestel, một trong những thủ lãnh của nhóm Decembrists, đã bị hành hình. Tên khởi thuỷ của nó, thường là theo tên nhà thờ ở mãi cuối phố: Panteleimonovskaya. Ở đó, khi con phố cùng đường, nó bèn vòng theo ngôi nhà thờ và chạy về phía sông Fontanka River, vượt qua cây cầu Police Bridge, và đem bạn tới Vườn Mùa Hạ, Summer Garden. Pushkin đã từng ở tại khu phố này, và đâu đó, trong thư viết cho vợ, ông nói, là, “sáng nào cũng như sáng nào, trong chiếc áo ngủ, chân mang đôi giầy mềm, tôi băng qua cầu, làm một cuộc đi dạo Vườn Mùa Xuân. Cả Vườn Mùa Xuân là khu vuờn của tôi, my orchard…”
Nhà của ông, Số 11, tôi nghĩ vậy. Còn của chúng tôi, Số 27, và đó là cuối con phố, khi nó trầm mình vào quảng trường nhà thờ. Còn điều này nữa, vì building chúng tôi nằm ở nơi con phố cắt đại lộ đã đi vào huyền thoại, Liteiny Prospect, thành thử địa chỉ thư tín của chúng tôi là Liteiny Pr. #24, Apt. 28. Đó là nơi chúng tôi nhận thư từ của chúng tôi; đó là nơi tôi viết trên những chiếc phong bì của những lá thư nhà, gửi cho hai cụ. Tôi nhắc tới ở đây không phải bởi vì nó có một chút ý nghĩa gì đặc biệt, nhưng là do, ngòi bút của tôi, có thể thông cảm với chủ nhân của nó, rằng, đây là lần cuối cùng, và rồi ra, nó sẽ chẳng bao giờ phải viết địa chỉ đó nữa.
9
Lạ một điều, ba thứ đồ đạc trong căn phòng lại tỏ ra ăn ý với phía bên ngoài cũng như là phía bên trong building. Chúng như quấn quit, bận bịu với nhau, bằng những đường cong, bằng tính hoành tráng toát ra từ cái vẻ mốc meo của vôi, của vữa, ở mặt tiền, hay ở những tấm ván, những cột trụ, từ bên trong tường nhô ra, cuộn trên cột, là những vòng hoa vữa, những trái cây được trang trí theo kiểu hình học. Cách trang trí, cả ngoại lẫn nội thất, làm tỏa ra một cái bóng dáng mầu nâu nhạt trộn mầu sữa cô ca. Tuy nhiên, hai cái tủ lớn của chúng tôi, giống như thứ ở nhà thờ, có ô kéo, thì lại bằng gỗ sồi, đánh véc ni đen, nhưng chúng cũng thuộc về cùng một thời kỳ, tức bước ngoặt của thế kỷ, như tòa building, chính nó. Có thể chính vì thế mà lối xóm tỏ ra dễ chịu với chúng tôi, ngay từ đầu. Có thể chính vì vậy, cũng nên, mới chưa đầy một năm, mà chúng tôi đã có cảm giác, sống ở đây hình như là, tự muôn đời. Cái cảm giác đó lây lan đến cả những đồ đạc, rằng, hai cái tủ lớn của chúng tôi sau cùng đã kiếm ra nhà của chúng, rồi cái cung cách vòng vo này nọ, sao đó, khiến cho chúng tôi nhận ra rằng, chúng tôi, cũng vậy, như vậy là đã an cư, và sẽ chẳng còn dời đổi nữa.
Hai cái tủ hai tầng, to lớn, cao mười feet của chúng tôi đó [bạn phải tháo mấy cạnh tủ ra khỏi cái đáy chân voi, mỗi lần muốn di chuyển], chúng chứa đựng gần như tất cả những gì gia đình chúng tôi nhặt nhạnh được, dòng dã suốt cuộc đời của chúng. Cái vai trò của gác xép, hay hầm nhà, ở mọi nơi khác, trong trường hợp của chúng tôi, là do hai cái tủ trình diễn. Những máy quay phim, đủ thứ hầm bà lằng của cha tôi, dụng cụ rửa phim, phim ảnh, chính chúng, những dĩa, đồ sứ, vải lanh, khăn trải bàn, hộp đựng giầy với những đôi bây giờ quá nhỏ đối với ông, nhưng vẫn còn rộng đối với tôi, những dụng cụ kìm kéo, tuộc vít, những cục pin, bộ đồ lính thuỷ cũ rích của ông, những chiếc ống nhòm, an-bum gia đình, mũ nón, khăn quàng của mẹ tôi, mấy lưỡi dao cạo râu Solingen bằng bạc, ba thứ đèn chụp hình hết xài, mớ huy chương nhà binh của cha tôi, những bộ kimonos nhiều mầu của mẹ tôi, thư từ trao đổi giữa hai người, kiếng đeo mắt, thứ dùng khi đi coi nhạc hội, hoặc coi diễn kịch, ba cái quạt máy, những món đồ kỷ niệm này nọ - tất cả được nhét vô đáy tủ, và mỗi lần mở ra, là mở ra một mùi quần áo cũ, và một mớ bụi. Phần dưới tủ, ngay phía bên trên, giống như trên mặt lò sưởi, hai cái bình thuỷ tinh, đựng rượu, ngồi chung với hai ngư ông người Tầu, bằng sành, đang quăng câu. Mẹ tôi, cứ hai lần trong một tuần, mở ra, và lau bụi cho mấy món đồ này.
Ba thứ đồ lẩm cẩm, linh tinh đó, nói gì thì nói, khi phải nhìn ngoái lại, chúng có thể được coi như một thứ tâm tư tiềm ẩn, mang tính góp nhặt, của gia đình chúng tôi, nối kết lại với nhau, nhưng vào lúc đương thời của chúng đó, tôi chẳng hề để ý tới. Ít nhất thì nó là như vầy: tất cả những đồ vật đó, chúng là một phần của ý thức của cha mẹ tôi, những dấu hiệu của hồi nhớ: về những nơi chốn, những thời kỳ trước tôi; về quá khứ chung, và riêng, trước khi gặp nhau, của ông bà, về tuổi trẻ và tuổi thơ của riêng từng người, về một thời đại khác biệt, một thế kỷ khác biệt. Vẫn theo dòng nhìn ngoái lại đó, tôi có thể nói thêm, điều này: về sự tự do của ông bà, bởi vì họ sinh ra tự do, và lớn lên tự do, trước khi có cái mà đám cặn bã ngu đần kia gọi là Cách Mạng, nhưng với họ, và nhiều thế hệ khác, nó có nghĩa là nô lệ.
10

Tôi viết thư nhà này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngôn ngữ ngoại về lương tâm” [a “foreign code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động, diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ sống lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con đường giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so với văn phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách máy móc kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính là xuất phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan này tới cơ quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy phép đi ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết, và liên tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một tờ giấy phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”]. Chỉ nội chuyện đó không thôi, sự lập đi lập lại một “lời phán” khốn nạn như thế, nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga. Ngoài ra, ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng chẳng mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới bầu trời Nga. Ai sẽ đọc chúng" Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã chết, hoặc sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự" Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn mẹ cha của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo yêu cầu của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân.Và rồi thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc ống nghe điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở nước ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và dù có la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những người đó điều gì" Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ" Chẳng có một xứ sở nào làm bố một xứ sở như là nước Nga, trong nghệ thuật huỷ diệt tâm hồn những con người như trên đây. Và chẳng có một cá nhân người viết nào, với cây viết ở trong tay, lại có thể làm lành lặn những tâm hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Cầu Trời cho Tiếng Anh là nhà cho cái chết của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với cha mẹ tôi, Maria Volpert và Alexander Brodsky, tiếng Anh mới là thứ tiếng dâng hiến cho họ, một cái dáng vẻ đẹp hơn, về một đời sau, và có lẽ cũng chỉ có nó, trừ cái đời sau của tôi ra. Và nếu nói về thứ ngôn ngữ thứ nhì đó, tức là tiếng Anh, viết bằng thứ tiếng này thì cũng giống như đang làm cái công việc rửa chén dĩa, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ.
11
Cha tôi là một ký giả - một nhiếp ảnh viên cho một nhật báo, chính xác là vậy - mặc dù ông cũng viết báo nữa. Ông viết chủ yếu cho những tờ báo hàng ngày nho nhỏ, và như thế, chúng chẳng hề được đọc, và chúng hầu hết sẽ bắt đầu với những dòng “Những đám mây bão nặng nề trên vòm trời biển Baltic…”, tin tưởng rằng, mở ra bằng một tin tức thời tiết như thế, sẽ khiến cho người đọc tin rằng đây là một cái tin đáng đọc, đáng tin cậy. Ông có hai cái bằng, một về địa dư, của Đại học Leningrad, và một, báo chí, của Trường Báo Chí Đỏ [School of Red Journalism]. Ông học môn thứ nhì, là sau khi biết rằng, những cơ may để được đi du lịch, đặc biệt là du lịch nước ngoài, kể như tiêu: là một người Do Thái, con trai một người chủ tiệm in, lại không phải là Đảng viên, thôi đừng mơ những chuyện hão huyền đó nữa nhé, ông đành nói với mình như vậy.
Báo chí [tới một mức nào đó] và chiến tranh [cơ bản] tạo được sự cân bằng, làm mất đi sự bất công kể trên. Hai chân ông phủ lên một phần sáu bề mặt trái đất [đây là định nghĩa tiêu chuẩn bề mặt lãnh thổ Liên Bang Xô Viết], và không nhỏ, những sông ngòi, biển cả. Mặc dù thuộc Hải Quân, chiến tranh khởi sự đối với ông, là vào năm 1940, ở Phần Lan, và chấm dứt vào năm 1948, tại Trung Hoa, nơi ông được phái tới, cùng với một nhóm cố vấn nhà binh để giúp đỡ me-xừ Mao trong những cuộc tấn công nổi dậy của ông ta, và chính từ đất nước này, mà chúng tôi có được hai ngư ông người Tầu bằng sành, và bộ trà Tầu mà mẹ tôi muốn chuyển giao cho tôi, khi tôi lấy vợ. Giữa thời gian đó, ông còn hộ tống Allies’ PQ tại biển Barents Sea, chống giữ và sau đó thất thủ Sevastopol tại Biển Đen, gia nhập – sau khi pháo thuyền của ông bị chìm – đơn vị Thuỷ Quân, Marines, như khi đó gọi vậy. Trong thời gian thành phố Lenigrad bị vây hãm, ông được phái tới tiền phương của mặt trận Leningrad, chụp những tấm hình thật là đẹp, như tôi đã từng được nhìn thấy, khi được in ra, về thành phố bị vây hãm, và sau đó, ông tham dự vào cuộc giải vây, [cái phần này của cuộc chiến, theo như tôi tin tưởng, là phần ảnh hưởng sâu đậm nhất tới ông, vì nó quá gần với gia đình của ông, tới nhà của ông. Nhưng, nếu nói về những gì gần gụi ông nhất, thì ông đã mất căn phòng của ông, người chị/em độc nhất của ông: vì bom, và vì chết đói]. Sau đó, ông được phái trở lại vùng Biển Đen, đổ xuống khu vực tệ hại là Malaya Zemlya, chống giữ nó; rồi thì, khi mặt trận chuyển về hướng Tây, đi theo đơn vị pháo thuyền đầu tiên tới Rumania, đổ quân tại đây, và, trong một thời gian ngắn, là vị toàn quyền nhà binh của Constanza. “Chúng tôi đã giải phóng Rumania”, đôi lúc, ông hào sảng về mình như vậy, và có khi còn hảo sảng thêm một chút nữa, nghĩa là nói về những lần gặp gỡ giữa ông với nhà vua King Michael. Đó là ông vua độc nhất mà ông đã từng gặp; còn Mao, Tưởng Giới Thạch, không nói tới Stalin, ông chỉ coi là tên tiếm ngôi, những tay soán nghịch.
[còn tiếp]
NQT dịch
tanvien.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
tác giả Đinh Xuân Quân sinh trong một gia tộc Miền Bắc theo Công Giáo từ vài thế kỷ, qua các thời kỳ Quốc-Cộng đảng tranh, Hoàng Đế Bảo Đại, TT Ngô Đình Diệm, Đệ Nhị Cộng Hòa, du học, về VN làm việc, vào tù cải tạo sau 1975, vượt biên, làm một số dự án LHQ giúp các nước nghèo (kể cả tại VN)
Một chiếc máy bay rớt tại South Dakota hôm Thứ Bảy làm thiệt mạng ít nhất 9 người, gồm phi công và 2 trẻ em.
Cảnh sát lập hồ sơ khởi tố Nguyen về tội bạo lực gia đình, say, và 2 tội gây nguy hiểm cho trẻ em. Nguyen được tạm rời nhà tù quận Polk County Jail vào sáng Thứ Sáu 29/11/2019.
Mười người đã bị bắn tại Khu Phố Pháp ở thành phố New Orleans vào sáng Chủ Nhật, 1 tháng 12, theo cảnh sát cho biết.
Diễn cẩn thận từng bước, hết sức chậm rãi đi xuống đồi do bờ triền dốc đứng. Hân đi sau tay phải ôm chặt tay trái Diễn và nửa thân xô nghiêng ép vào người anh.
Như chúng ta biết, đảng SPD (Đảng Dân chủ Xã hội Đức) đã tìm kiếm lãnh đạo mới từ sáu tháng nay. Vào mùa hè 2019, nhà lãnh đạo đảng trước đó Nahles đã từ chức sau các cuộc tranh giành quyền lực nội bộ. Có nhiều ứng cử viên nhưng sau cuộc bầu cử sơ bộ chỉ còn hai cặp vào chung kết.
Hàng triệu người nghèo có thể bị mất phiếu thực phẩm (food stamps) quan trọng theo những thay đổi luật lệ được đề nghị bởi chính phủ Trump.
Con sông Hoàng Hạ chảy xuyên qua trấn Hoàng Hoa quanh năm xanh biếc, nước từ miền tuyết lãnh tan ra nên tinh khiết vô cùng.
Lý do để viết bài này là vì bản thân người viết có sai lầm cần bày tỏ. Tuy rằng sai lầm đã hiệu đính, nhưng cũng cần nói ra, vì Đức Phật đã dạy rằng hễ sai thì nên tự mình bày tỏ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.