George Bush thắng cử ngày 2 tháng 11, 2004 và sẽ là một vị tổng thống trọn vẹn 8 năm như giới hạn tối đa Hiến Pháp Hoa Kỳ cho phép. Bush có quyền tự hào vì cuộc tranh cử rất gay go. Cử tri hai bên hăng hái đi bầu để ủng hộ người mình chọn lựa. Tỉ số cử tri đi bầu cao hơn tỉ số năm 2000 là 11%. Và ông Bush đã thắng một cách gọn gàng, vượt đối thủ của ông là Thượng nghị sĩ John Kerry hơn 3.480.000 phiếu, chiếm 286 phiếu cử tri đoàn trên 270 phiếu cần thiết để đắc cử. Buổi sáng ngày 3/11 vào lúc 11:02 giờ Hoa Thịnh Đốn, Thượng nghị sĩ John Kerry gọi điện thoại nhận thua và chúc mừng ông Bush, không có chuyện kiện cáo lôi thôi như người ta lo ngại.
Cuộc chiến thắng của Bush càng to lớn vì tại hai viện quốc hội đảng Cộng Hòa của ông chẳng những vẫn duy trì đa số mà còn tăng thêm ghế. Thượng nghị viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 51/48 lên 55/44, và Hạ nghị viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 228/206 lên 232/202. Chiến thắng này là một thông điệp không thể chối cãi dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ chính sách của Bush và bày tỏ ý muốn ông tiếp tục chính sách của ông trong 4 năm nữa, mặc dù chính sách đó đang là một gánh nặng cho quốc gia và tạo nên mối bất hòa trên thế giới. Nếu năm 2000 ông Bush thắng cử không có sứ mệnh của dân thì lần này ông có sự mệnh rõ ràng trong tay.
Thành phần ủng hộ tổng thống Bush là những ai" Thống kê của viện Race & Ethnic Studies tại đại học A&M ở Texas cho thấy trong số 117.6 triệu người đi bầu: người da trắng 58% bầu cho Bush, 41% bầu cho Kerry; người da đen 11% cho Bush, 88% cho Kerry; người gốc Mễ 43% cho Bush, 56% cho Kerry; và người gốc Á châu 41% cho Bush, 58% cho Kerry.
Người da trắng chiếm đa số trên toàn quốc, người da đen, người gốc Mễ, gốc Á châu gộp lại cũng còn là thiểu số. Vậy người da trắng đã quyết định kết quả cuộc bầu cử. Người da trắng bỏ phiếu cho Bush thuộc một trong hai thành phần. Thứ nhất là thành phần chủ trương một chính sách mạnh để trả đũa cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 giết chết gần 5000 công dân Mỹ do những người Hồi giáo chủ động. Lý của họ là : đánh Afghanistan dung dưỡng Osama bin Laden chưa đủ, cần trừng phạt thái độ ỡm ờ của Saddam Hussein, và nếu cần thì sẽ đánh bất cứ ai nghi là đe dọa an ninh của Hoa Kỳ. Thành phần thứ hai là thành phần ủng hộ những giá trị Bush chủ trương mà họ gọi là giá trị luân lý như chống phá thai, chống hôn nhân đồng tính v.v... Về mặt quyền lợi những người ủng hộ Bush cũng nghĩ rằng cuộc chiến tranh hiện nay có thể giúp bảo vệ nguồn dầu hỏa Trung đông không để lọt vào thay những thành phần thù nghịch với Hoa Kỳ.
Sự thắng lớn của George Bush trong một khung cảnh hoàn toàn bất lợi cho ông như kinh tế quốc gia không có dấu hiệu gì phấn khởi, ngân sách thâm thủng, cuộc chiến tại Iraq sa lầy, Hoa Kỳ mất uy tín trên thế giới đã nói lên rằng dân chúng Mỹ muốn làm người hùng. Họ chưa quên lời tuyên bố của tổng thống Kennedy trong bài diễn văn về tình trạng liên bang của ông năm 1961 rằng nước Mỹ sẵn sàng “trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào” (pay any price, bear any burden). Khác chăng là năm 1961 tổng thống Kennedy chấp nhận trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào để bảo vệ Hoa Kỳ khi Liên bang Xô viết mang hỏa tiễn và đầu đạn nguyên tử đến Cuba, và Hoa Kỳ có khả năng thực hiện sự cam kết đó. Cả nước và khối tự do trên thế giới đứng sau lưng tổng thống Kennedy. Trái lại hôm nay dân chúng Hoa Kỳ bỏ phiếu cam kết như vậy chỉ vì muốn chứng tỏ mình là đệ nhất siêu cường “làm lớn thì làm láo” bất chấp thực tế là có khả năng trả giá và mang nổi gánh nặng không.
Bush sẽ làm gì trong 4 năm tới" Bình thường vị tổng thống nào cũng biết rút kinh nghiệm của nhiệm kỳ thứ nhất và những sáng kiến mới của đối phương qua cuộc tranh cử để điều chỉnh chính sách trong nhiệm kỳ 2, và để dọn cho mình một chỗ đứng trong lịch sử. Nhiều người hy vọng Bush sẽ hành xử nhiệm vụ và sứ mệnh được giao phó một cách dè dặt, biết nhìn trước nhìn sau. Một vài dấu hiệu theo hướng này như hứa sẽ thực hiện một chính sách đoàn kết để hàn gắn những rạn nứt trong xã hội, hứa giải quyết vấn đề Do Thái – Palestine trong tinh thần tôn trọng quyền lập quốc của Palestine, hứa đi thăm Âu châu sau ngày tuyên thệ nhậm chức để làm lành với các đồng minh Âu châu.
Tuy nhiên dấu hiệu ngược lại là Bush sẽ phất cao ngọn cờ hùng vừa chiếm được để tiến tới trước đậm nét hơn. Việc bổ nhiệm bà Condoleezza Rice thay thế ông Colin Powel ở chức vụ bộ trưởng ngoại giao là một chỉ dấu. Bà Rice có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm để làm một bộ trưởng ngoại giao không" Cái học của bà có thể vượt trội cái học vấn của ông Powell có được ở các trường quân sự. Nhưng bốn năm qua ở chức vụ cố vấn an ninh quốc gia bà Rice tuyệt đối trung thành với Bush và hành xử nhiệm vụ như chiếc bóng thực hiện những chỉ thị của Bush bên cạnh hai khuôn mặt Dick Cheney và Donald Rumsfeld khi nào cũng lấn lướt bà. Vậy bà có thể làm được gì giúp Bush về mặt đối ngoại" Vào lúc Bush đang cần một chính sách ngoại giao thoáng, đầy sáng kiến và mềm dẽo Bush chọn một nhân vật hoàn toàn thiếu khả năng để làm công việc đó.
Những vấn đề trước mắt của tổng thống Bush không đơn giản. Ông Richard Haass, nguyên viên chức cao cấp phụ trách chính sách tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ trong hai năm 2001-2003 và nay là chủ tịch Hội đồng Quan hệ Ngoại giao (Council on Foreign Relations - một cơ sở tư) cho rằng Bush có bốn vấn đề lớn trước mắt:
Trước hết là chận đứng nạn khủng bố. Từ năm 2001, hai phần ba thành viên Al Qaeda trên thế giới đã bị bắt hay bị giết, nhưng theo tin tức tình báo chúng đều được thay thế. Và cái ẩn số lớn là: Al Qaeda có thể thủ đắc vũ khí nguyên tử hay không, và nếu có chúng có khả năng dùng để đánh Hoa Kỳ không"
Vấn đề thứ hai là vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn và Iran. Bắc Hàn hình như đã có bom nguyên tử hay nếu chưa cũng đã có đủ nhiên liệu và hiểu biết kỹ thuật để chế tạo ít nhất từ 6 đến 10 quả bom nguyên tử. Trong khi Iran đã đi khá xa trong quá trình tinh luyện uranium, nhiên liệu để chế bom nguyên tử. Sự ỡm ờ của hai quốc gia này cho thấy nếu Hoa Kỳ không có đối sách thích đáng họ có thể chế tạo bom nguyên tử. Trong trường hợp đó các nước chung quanh phải chạy theo để tự bảo vệ và thế giới càng trở nên thiếu an toàn và Hoa Kỳ càng bị đe dọa hơn.
Vấn đề khác là cuộc tranh chấp Do Thái - Palestine. Yasser Arafat qua đời tạo cơ hội cho ông Bush đẩy mạnh một giải pháp, nhưng mọi chuyện còn lệ thuộc vào thủ tướng Do Thái Ariel Sharon, vào lãnh đạo mới của Palestine và vào những tổ chức khủng bố như Hamas và Jhihas.
Sau cùng Đài Loan -Trung quốc là một vấn đề hóc búa khác. Hoa Kỳ chấp nhận nguyên tắc “một nước Trung hoa”, nhưng còn dính cam kết bảo vệ Đài Loan. Nếu Đài Loan tuyên bố độc lập Trung quốc sẽ đánh Đài Loan. Hoa Kỳ đưa quân đến bảo vệ Đài Loan thì Hoa Kỳ sẽ biến một nước Trung quốc bạn thành thù. Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nguyên tử với Bắc Hàn và tại Liên Hiệp quốc vì Trung quốc có quyền phủ quyết. Nếu tọa thị để Trung quốc chiếm Đài Loan thì còn ai tin vào đồng minh Hoa kỳ nữa (“The world on his desk” by Richard Haass, The Economist, November 6th-12th, 2004)
Tuy nhiên chìa khóa của tất cả vấn đề trên nằm ở Iraq. Nếu trong một hay hai năm nữa, Iraq có một chế độ dân chủ và ổn định, quân đội Hoa Kỳ có thể rút về mà thế lực của Hoa Kỳ tại Trung đông không suy giảm thì với tư thế mới Hoa Kỳ có uy tín và có sức giải quyết các vấn đề còn lại. Nhưng các dấu hiệu đều cho thấy tình hình Iraq chỉ có thể càng lúc càng rối rắm hơn.
Một cách lạc quan cuộc bầu cử ngày 30/1/2005 tại Iraq dù bầm dập cũng sẽ được tổ chức (để làm được điều này Hoa Kỳ có thể mang thêm quân tới) nhưng với sự bất mãn của khối Hồi giáo trên thế giới nói chung và dân chúng Iraq nói riêng, một chính quyền Iraq thân Hoa Kỳ không thể hình thành và tồn tại nếu không có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ. Chiến tranh chỉ có thể càng ngày càng đẫm máu và Hoa Kỳ tiếp tục sa lầy tại đó.
Trong bối cảnh này Iran và Bắc Hàn sẽ không sợ Hoa Kỳ tấn công. Tuy nhiên Iran và Bắc Hàn sẽ không dại dột chọc tức Hoa Kỳ. Họ sẽ chọn một chính sách làm ra vẻ nể sợ Hoa Kỳ nhưng âm thầm vẫn xúc tiến kế hoạch chế tạo vũ khí nguyên tử.
Nhiều người cho rằng sự lo ngại tổng thống Bush sẽ lợi dụng sứ mệnh của dân vừa giao phó để đi quá xa là một sự lo ngại quá đáng. Nhưng John Bolton, phụ tá bộ trưởng ngoại giao của tổng thống Bush từng phát biểu vào cuối thập niên 1990 rằng: “thật là sai lầm nếu chúng ta chấp nhận giá trị của các luật lệ quốc tế - dù chỉ trong ngắn hạn – vì những người nại luật quốc tế là những người trong dài hạn chỉ muốn hạn chế khả năng hành động của chúng ta.” (The Sources of American Legitimacy, Foreign Affairs November/December 2004 by Robert Tucker & David Hendrickson). Trong tinh thần đó vụ khủng bố ngày 11/9/2001 là một cơ hội bằng vàng để đẩy mạnh chính sách người hùng của tổng thống Bush và các phụ tá cực hữu của ông để thực hiện mộng “đế quốc” nghìn năm một thuở khi Liên bang Xô viết đã sụp đổ và Trung quốc còn quá yếu. Cho nên sự lo ngại trên không phải là một sự quá lo xa.
Nhưng nếu trước cuộc bầu cử ngày 2/11/2004 dư luận quy trách những khó khăn của Hoa Kỳ trên thế giới cho tổng thống Bush thì sau khi dân chúng Hoa Kỳ đã bỏ phiếu ủng hộ đường lối cực hữu của ông thì dù cục diện thế giới và Hoa Kỳ sẽ như thế nào là trách nhiệm chung của nhân dân Hoa Kỳ chứ không phải là trách nhiệm riêng của tổng thống Bush.
Nếu cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 năm 2004 là cao điểm quyền lực của đảng Cộng Hòa và của tổng thống Bush cũng như của Hoa Kỳ, để như mọi biến chuyển trong trời đất, cao điểm là điểm khởi đầu của sự đi xuống thì cuộc bầu cử 2/11/04 là một biến cố, một landmark đáng buồn của lịch sử Mỹ quốc, trong đó nhân dân Hoa Kỳ, có cả đảng Dân Chủ và cá nhân ông John Kerry cùng chia xẻ trách nhiệm.
Trần Bình Nam
Nov. 23, 2004
BinhNam@sbcglobal.net
http://www.vnet.org/tbn
Cuộc chiến thắng của Bush càng to lớn vì tại hai viện quốc hội đảng Cộng Hòa của ông chẳng những vẫn duy trì đa số mà còn tăng thêm ghế. Thượng nghị viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 51/48 lên 55/44, và Hạ nghị viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 228/206 lên 232/202. Chiến thắng này là một thông điệp không thể chối cãi dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ chính sách của Bush và bày tỏ ý muốn ông tiếp tục chính sách của ông trong 4 năm nữa, mặc dù chính sách đó đang là một gánh nặng cho quốc gia và tạo nên mối bất hòa trên thế giới. Nếu năm 2000 ông Bush thắng cử không có sứ mệnh của dân thì lần này ông có sự mệnh rõ ràng trong tay.
Thành phần ủng hộ tổng thống Bush là những ai" Thống kê của viện Race & Ethnic Studies tại đại học A&M ở Texas cho thấy trong số 117.6 triệu người đi bầu: người da trắng 58% bầu cho Bush, 41% bầu cho Kerry; người da đen 11% cho Bush, 88% cho Kerry; người gốc Mễ 43% cho Bush, 56% cho Kerry; và người gốc Á châu 41% cho Bush, 58% cho Kerry.
Người da trắng chiếm đa số trên toàn quốc, người da đen, người gốc Mễ, gốc Á châu gộp lại cũng còn là thiểu số. Vậy người da trắng đã quyết định kết quả cuộc bầu cử. Người da trắng bỏ phiếu cho Bush thuộc một trong hai thành phần. Thứ nhất là thành phần chủ trương một chính sách mạnh để trả đũa cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 giết chết gần 5000 công dân Mỹ do những người Hồi giáo chủ động. Lý của họ là : đánh Afghanistan dung dưỡng Osama bin Laden chưa đủ, cần trừng phạt thái độ ỡm ờ của Saddam Hussein, và nếu cần thì sẽ đánh bất cứ ai nghi là đe dọa an ninh của Hoa Kỳ. Thành phần thứ hai là thành phần ủng hộ những giá trị Bush chủ trương mà họ gọi là giá trị luân lý như chống phá thai, chống hôn nhân đồng tính v.v... Về mặt quyền lợi những người ủng hộ Bush cũng nghĩ rằng cuộc chiến tranh hiện nay có thể giúp bảo vệ nguồn dầu hỏa Trung đông không để lọt vào thay những thành phần thù nghịch với Hoa Kỳ.
Sự thắng lớn của George Bush trong một khung cảnh hoàn toàn bất lợi cho ông như kinh tế quốc gia không có dấu hiệu gì phấn khởi, ngân sách thâm thủng, cuộc chiến tại Iraq sa lầy, Hoa Kỳ mất uy tín trên thế giới đã nói lên rằng dân chúng Mỹ muốn làm người hùng. Họ chưa quên lời tuyên bố của tổng thống Kennedy trong bài diễn văn về tình trạng liên bang của ông năm 1961 rằng nước Mỹ sẵn sàng “trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào” (pay any price, bear any burden). Khác chăng là năm 1961 tổng thống Kennedy chấp nhận trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào để bảo vệ Hoa Kỳ khi Liên bang Xô viết mang hỏa tiễn và đầu đạn nguyên tử đến Cuba, và Hoa Kỳ có khả năng thực hiện sự cam kết đó. Cả nước và khối tự do trên thế giới đứng sau lưng tổng thống Kennedy. Trái lại hôm nay dân chúng Hoa Kỳ bỏ phiếu cam kết như vậy chỉ vì muốn chứng tỏ mình là đệ nhất siêu cường “làm lớn thì làm láo” bất chấp thực tế là có khả năng trả giá và mang nổi gánh nặng không.
Bush sẽ làm gì trong 4 năm tới" Bình thường vị tổng thống nào cũng biết rút kinh nghiệm của nhiệm kỳ thứ nhất và những sáng kiến mới của đối phương qua cuộc tranh cử để điều chỉnh chính sách trong nhiệm kỳ 2, và để dọn cho mình một chỗ đứng trong lịch sử. Nhiều người hy vọng Bush sẽ hành xử nhiệm vụ và sứ mệnh được giao phó một cách dè dặt, biết nhìn trước nhìn sau. Một vài dấu hiệu theo hướng này như hứa sẽ thực hiện một chính sách đoàn kết để hàn gắn những rạn nứt trong xã hội, hứa giải quyết vấn đề Do Thái – Palestine trong tinh thần tôn trọng quyền lập quốc của Palestine, hứa đi thăm Âu châu sau ngày tuyên thệ nhậm chức để làm lành với các đồng minh Âu châu.
Tuy nhiên dấu hiệu ngược lại là Bush sẽ phất cao ngọn cờ hùng vừa chiếm được để tiến tới trước đậm nét hơn. Việc bổ nhiệm bà Condoleezza Rice thay thế ông Colin Powel ở chức vụ bộ trưởng ngoại giao là một chỉ dấu. Bà Rice có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm để làm một bộ trưởng ngoại giao không" Cái học của bà có thể vượt trội cái học vấn của ông Powell có được ở các trường quân sự. Nhưng bốn năm qua ở chức vụ cố vấn an ninh quốc gia bà Rice tuyệt đối trung thành với Bush và hành xử nhiệm vụ như chiếc bóng thực hiện những chỉ thị của Bush bên cạnh hai khuôn mặt Dick Cheney và Donald Rumsfeld khi nào cũng lấn lướt bà. Vậy bà có thể làm được gì giúp Bush về mặt đối ngoại" Vào lúc Bush đang cần một chính sách ngoại giao thoáng, đầy sáng kiến và mềm dẽo Bush chọn một nhân vật hoàn toàn thiếu khả năng để làm công việc đó.
Những vấn đề trước mắt của tổng thống Bush không đơn giản. Ông Richard Haass, nguyên viên chức cao cấp phụ trách chính sách tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ trong hai năm 2001-2003 và nay là chủ tịch Hội đồng Quan hệ Ngoại giao (Council on Foreign Relations - một cơ sở tư) cho rằng Bush có bốn vấn đề lớn trước mắt:
Trước hết là chận đứng nạn khủng bố. Từ năm 2001, hai phần ba thành viên Al Qaeda trên thế giới đã bị bắt hay bị giết, nhưng theo tin tức tình báo chúng đều được thay thế. Và cái ẩn số lớn là: Al Qaeda có thể thủ đắc vũ khí nguyên tử hay không, và nếu có chúng có khả năng dùng để đánh Hoa Kỳ không"
Vấn đề thứ hai là vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn và Iran. Bắc Hàn hình như đã có bom nguyên tử hay nếu chưa cũng đã có đủ nhiên liệu và hiểu biết kỹ thuật để chế tạo ít nhất từ 6 đến 10 quả bom nguyên tử. Trong khi Iran đã đi khá xa trong quá trình tinh luyện uranium, nhiên liệu để chế bom nguyên tử. Sự ỡm ờ của hai quốc gia này cho thấy nếu Hoa Kỳ không có đối sách thích đáng họ có thể chế tạo bom nguyên tử. Trong trường hợp đó các nước chung quanh phải chạy theo để tự bảo vệ và thế giới càng trở nên thiếu an toàn và Hoa Kỳ càng bị đe dọa hơn.
Vấn đề khác là cuộc tranh chấp Do Thái - Palestine. Yasser Arafat qua đời tạo cơ hội cho ông Bush đẩy mạnh một giải pháp, nhưng mọi chuyện còn lệ thuộc vào thủ tướng Do Thái Ariel Sharon, vào lãnh đạo mới của Palestine và vào những tổ chức khủng bố như Hamas và Jhihas.
Sau cùng Đài Loan -Trung quốc là một vấn đề hóc búa khác. Hoa Kỳ chấp nhận nguyên tắc “một nước Trung hoa”, nhưng còn dính cam kết bảo vệ Đài Loan. Nếu Đài Loan tuyên bố độc lập Trung quốc sẽ đánh Đài Loan. Hoa Kỳ đưa quân đến bảo vệ Đài Loan thì Hoa Kỳ sẽ biến một nước Trung quốc bạn thành thù. Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nguyên tử với Bắc Hàn và tại Liên Hiệp quốc vì Trung quốc có quyền phủ quyết. Nếu tọa thị để Trung quốc chiếm Đài Loan thì còn ai tin vào đồng minh Hoa kỳ nữa (“The world on his desk” by Richard Haass, The Economist, November 6th-12th, 2004)
Tuy nhiên chìa khóa của tất cả vấn đề trên nằm ở Iraq. Nếu trong một hay hai năm nữa, Iraq có một chế độ dân chủ và ổn định, quân đội Hoa Kỳ có thể rút về mà thế lực của Hoa Kỳ tại Trung đông không suy giảm thì với tư thế mới Hoa Kỳ có uy tín và có sức giải quyết các vấn đề còn lại. Nhưng các dấu hiệu đều cho thấy tình hình Iraq chỉ có thể càng lúc càng rối rắm hơn.
Một cách lạc quan cuộc bầu cử ngày 30/1/2005 tại Iraq dù bầm dập cũng sẽ được tổ chức (để làm được điều này Hoa Kỳ có thể mang thêm quân tới) nhưng với sự bất mãn của khối Hồi giáo trên thế giới nói chung và dân chúng Iraq nói riêng, một chính quyền Iraq thân Hoa Kỳ không thể hình thành và tồn tại nếu không có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ. Chiến tranh chỉ có thể càng ngày càng đẫm máu và Hoa Kỳ tiếp tục sa lầy tại đó.
Trong bối cảnh này Iran và Bắc Hàn sẽ không sợ Hoa Kỳ tấn công. Tuy nhiên Iran và Bắc Hàn sẽ không dại dột chọc tức Hoa Kỳ. Họ sẽ chọn một chính sách làm ra vẻ nể sợ Hoa Kỳ nhưng âm thầm vẫn xúc tiến kế hoạch chế tạo vũ khí nguyên tử.
Nhiều người cho rằng sự lo ngại tổng thống Bush sẽ lợi dụng sứ mệnh của dân vừa giao phó để đi quá xa là một sự lo ngại quá đáng. Nhưng John Bolton, phụ tá bộ trưởng ngoại giao của tổng thống Bush từng phát biểu vào cuối thập niên 1990 rằng: “thật là sai lầm nếu chúng ta chấp nhận giá trị của các luật lệ quốc tế - dù chỉ trong ngắn hạn – vì những người nại luật quốc tế là những người trong dài hạn chỉ muốn hạn chế khả năng hành động của chúng ta.” (The Sources of American Legitimacy, Foreign Affairs November/December 2004 by Robert Tucker & David Hendrickson). Trong tinh thần đó vụ khủng bố ngày 11/9/2001 là một cơ hội bằng vàng để đẩy mạnh chính sách người hùng của tổng thống Bush và các phụ tá cực hữu của ông để thực hiện mộng “đế quốc” nghìn năm một thuở khi Liên bang Xô viết đã sụp đổ và Trung quốc còn quá yếu. Cho nên sự lo ngại trên không phải là một sự quá lo xa.
Nhưng nếu trước cuộc bầu cử ngày 2/11/2004 dư luận quy trách những khó khăn của Hoa Kỳ trên thế giới cho tổng thống Bush thì sau khi dân chúng Hoa Kỳ đã bỏ phiếu ủng hộ đường lối cực hữu của ông thì dù cục diện thế giới và Hoa Kỳ sẽ như thế nào là trách nhiệm chung của nhân dân Hoa Kỳ chứ không phải là trách nhiệm riêng của tổng thống Bush.
Nếu cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 năm 2004 là cao điểm quyền lực của đảng Cộng Hòa và của tổng thống Bush cũng như của Hoa Kỳ, để như mọi biến chuyển trong trời đất, cao điểm là điểm khởi đầu của sự đi xuống thì cuộc bầu cử 2/11/04 là một biến cố, một landmark đáng buồn của lịch sử Mỹ quốc, trong đó nhân dân Hoa Kỳ, có cả đảng Dân Chủ và cá nhân ông John Kerry cùng chia xẻ trách nhiệm.
Trần Bình Nam
Nov. 23, 2004
BinhNam@sbcglobal.net
http://www.vnet.org/tbn
Gửi ý kiến của bạn