Mỗi dân tộc đều có một số truyện cổ tích để giải thích vê nguồn gốc. Ông bà mình chọn 18 đời Vua Hùng làm dấu mốc để mừng những ngày đầu tiên lập quốc.
Lẽ ra có thể ngược thời gian tới xa thật xa hơn nữa... thí dụ như con rồng, cháu tiên. Nhưng chính thời điểm có trận tư5ự vua quan, binh tướng, sĩ thương công nông... ý thức quốc gia mới có.
Trước thời điểm đó, có lẽ ông bà mình chỉ mới có ý thức về bộ lạc, hay gia tộc, hay làng xã.
Khi định chế lãnh thổ quốc gia hình thành, mới có chuyện vua quan, binh tướng, sĩ nông... Đó là khi khái niệm gắn kết mọi người trong một nước với nhau.
Giỗ Tổ hẳn là ý thức đó -- những dòng này chỉ suy đoán, vì người viết không phaỉ là chuyên gia về xã hội học.
Tuần lễ vừa qua, cả nước mừng ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Báo Công Lý có bản tin “Vì sao ngày 10 tháng 3 là ngày Giỗ tổ Hùng Vương?”...
Bản tin Công Lý viết:
“Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch, người dân cả nước lại nô nức hướng về Đền Hùng (Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) làm lễ dâng hương tưởng nhớ các vua Hùng.
Ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch) được công nhận là một trong những ngày Quốc lễ của Việt Nam thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của con dân người Việt.
Dân gian có câu “Dù ai đi ngược về xuôi - Nhớ ngày Giỗ tổ mùng Mười tháng Ba”. Ngày Giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành ngày lễ truyền thống trọng đại của dân tộc. Câu ca ấy đã in đậm trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Vậy nguồn gốc ngày Giỗ tổ Hùng Vương có từ bao giờ? Vì sao ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Giỗ tổ thì không phải ai cũng tỏ tường.
Vì sao ngày 10 tháng 3 là ngày Giỗ tổ Hùng Vương?
Theo giải thích của Nhà sử học Lê Văn Lan, hai câu “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày Giỗ tổ mùng Mười tháng Ba” nằm trong một bài ca gồm 4 câu. Hai câu tiếp theo ở cuối bài là “… Khắp miền truyền mãi câu ca. Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. Đó là một bài ca mà từ cú pháp đến thi pháp đều khá mới mẻ. Đặc biệt, ý tứ của câu cuối cùng khá gần gũi với những sáng tác trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, thường dùng chủ đề Hùng Vương và Đền Hùng để cổ vũ niềm tin vào vận mệnh non sông.
Cũng theo Nhà sử học Lê Văn Lan, tại Kính thiên lĩnh điện (Điện núi thờ Trời) trên núi Hùng, còn gọi là đền Thượng, có hai tấm bia cổ.
Tấm bia thứ nhất có tên là "Hùng miếu điển lệ bia" có ghi: "Xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có lăng miếu phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng, trải các năm cả nước đến lễ, thường lấy kỳ mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ, chưa có việc định rõ ngày mà tục lễ của dân xã đó, lấy ngày 11/3, kết hợp với thờ thần thổ kỳ, làm lễ riêng, thường hứng bất kỳ, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì kém đi.
Nay cẩn thận tính lại rằng, từ đây về sau, lấy ngày 10/3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản hạt khiến dân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái". (Công văn Bộ lễ triều Nguyễn đề ngày 25/7 năm Khải Định thứ nhất tức 1917).
Tấm bia thứ hai mang tên "Hùng Vương từ khảo" (tức Đền Hùng Vương khảo cứu) do tham chi Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ lập, ghi: "Trước đây, ngày Quốc tế (lễ) lấy vào mùa thu làm định kỳ.
Đến năm Khải Định (Dương lịch là 1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ lễ ấn định ngày 10/3 hằng năm làm ngày Quốc lễ, tức trước ngày Giỗ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (tức 11/3) thì do dân sở tại làm lễ.
Như vậy, kể từ năm 1917 mới có quy định chính thức của triều Nguyễn (đời vua Khải Định) lấy ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Quốc giỗ...”(ngưng trích).
Trong khi đó, tự điển Wikipedia ghi nhận:
“Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc Kinh tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.
Ngày giỗ Hùng Vương từ lâu đã được công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch; đổi lại dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng cùng sưu dịch và sung vào lính.
Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định, Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 Tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 Tháng 3 âm lịch thì cử hành "quốc tế" hàng năm, tức là sức cho các quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt triều đình Huế cúng tế.”
Tuy nhiên, nếu bạn nhớ rằng, trong nhiều thập niên, Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã bị nhà nước CSVN bỏ bê... trong khi truyền thống các chế độ VNCH ở Miền Nam vẫn giữ ngaà lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Chỉ tới khi CSVN nhìn thấy cần có ngaà Giỗ Tổ để chiêu mời Việt kiều vê dự lễ hội, và cùng lúc là hồi phục du lịch...
Đó là lý do, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tới năm 2007 mới chính thức quy định ngày nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Tức là, 32 năm sau ngày 30-4-1975, CSVN mới công nhận Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Nếu không có tiền Việt Kiều, hẳn là chỉ có lễ Giỗ Tổ Mác-Lê thôi.
Lẽ ra có thể ngược thời gian tới xa thật xa hơn nữa... thí dụ như con rồng, cháu tiên. Nhưng chính thời điểm có trận tư5ự vua quan, binh tướng, sĩ thương công nông... ý thức quốc gia mới có.
Trước thời điểm đó, có lẽ ông bà mình chỉ mới có ý thức về bộ lạc, hay gia tộc, hay làng xã.
Khi định chế lãnh thổ quốc gia hình thành, mới có chuyện vua quan, binh tướng, sĩ nông... Đó là khi khái niệm gắn kết mọi người trong một nước với nhau.
Giỗ Tổ hẳn là ý thức đó -- những dòng này chỉ suy đoán, vì người viết không phaỉ là chuyên gia về xã hội học.
Tuần lễ vừa qua, cả nước mừng ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Báo Công Lý có bản tin “Vì sao ngày 10 tháng 3 là ngày Giỗ tổ Hùng Vương?”...
Bản tin Công Lý viết:
“Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch, người dân cả nước lại nô nức hướng về Đền Hùng (Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) làm lễ dâng hương tưởng nhớ các vua Hùng.
Ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch) được công nhận là một trong những ngày Quốc lễ của Việt Nam thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của con dân người Việt.
Dân gian có câu “Dù ai đi ngược về xuôi - Nhớ ngày Giỗ tổ mùng Mười tháng Ba”. Ngày Giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành ngày lễ truyền thống trọng đại của dân tộc. Câu ca ấy đã in đậm trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Vậy nguồn gốc ngày Giỗ tổ Hùng Vương có từ bao giờ? Vì sao ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Giỗ tổ thì không phải ai cũng tỏ tường.
Vì sao ngày 10 tháng 3 là ngày Giỗ tổ Hùng Vương?
Theo giải thích của Nhà sử học Lê Văn Lan, hai câu “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày Giỗ tổ mùng Mười tháng Ba” nằm trong một bài ca gồm 4 câu. Hai câu tiếp theo ở cuối bài là “… Khắp miền truyền mãi câu ca. Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. Đó là một bài ca mà từ cú pháp đến thi pháp đều khá mới mẻ. Đặc biệt, ý tứ của câu cuối cùng khá gần gũi với những sáng tác trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, thường dùng chủ đề Hùng Vương và Đền Hùng để cổ vũ niềm tin vào vận mệnh non sông.
Cũng theo Nhà sử học Lê Văn Lan, tại Kính thiên lĩnh điện (Điện núi thờ Trời) trên núi Hùng, còn gọi là đền Thượng, có hai tấm bia cổ.
Tấm bia thứ nhất có tên là "Hùng miếu điển lệ bia" có ghi: "Xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có lăng miếu phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng, trải các năm cả nước đến lễ, thường lấy kỳ mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ, chưa có việc định rõ ngày mà tục lễ của dân xã đó, lấy ngày 11/3, kết hợp với thờ thần thổ kỳ, làm lễ riêng, thường hứng bất kỳ, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì kém đi.
Nay cẩn thận tính lại rằng, từ đây về sau, lấy ngày 10/3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản hạt khiến dân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái". (Công văn Bộ lễ triều Nguyễn đề ngày 25/7 năm Khải Định thứ nhất tức 1917).
Tấm bia thứ hai mang tên "Hùng Vương từ khảo" (tức Đền Hùng Vương khảo cứu) do tham chi Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ lập, ghi: "Trước đây, ngày Quốc tế (lễ) lấy vào mùa thu làm định kỳ.
Đến năm Khải Định (Dương lịch là 1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ lễ ấn định ngày 10/3 hằng năm làm ngày Quốc lễ, tức trước ngày Giỗ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (tức 11/3) thì do dân sở tại làm lễ.
Như vậy, kể từ năm 1917 mới có quy định chính thức của triều Nguyễn (đời vua Khải Định) lấy ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Quốc giỗ...”(ngưng trích).
Trong khi đó, tự điển Wikipedia ghi nhận:
“Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc Kinh tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.
Ngày giỗ Hùng Vương từ lâu đã được công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch; đổi lại dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng cùng sưu dịch và sung vào lính.
Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định, Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 Tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 Tháng 3 âm lịch thì cử hành "quốc tế" hàng năm, tức là sức cho các quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt triều đình Huế cúng tế.”
Tuy nhiên, nếu bạn nhớ rằng, trong nhiều thập niên, Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã bị nhà nước CSVN bỏ bê... trong khi truyền thống các chế độ VNCH ở Miền Nam vẫn giữ ngaà lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Chỉ tới khi CSVN nhìn thấy cần có ngaà Giỗ Tổ để chiêu mời Việt kiều vê dự lễ hội, và cùng lúc là hồi phục du lịch...
Đó là lý do, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tới năm 2007 mới chính thức quy định ngày nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Tức là, 32 năm sau ngày 30-4-1975, CSVN mới công nhận Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Nếu không có tiền Việt Kiều, hẳn là chỉ có lễ Giỗ Tổ Mác-Lê thôi.
Gửi ý kiến của bạn