Lượt qua hai tạp chí cuả Quân đội Mỹ, Officer và Army, thời gian chộn rộn tranh cử gần đây, và kết hợp với các lời tuyên bố trong các cuộc ra mắt chung với bộ tham mưu hay riêng cuả hai ứng cử viên, ngưòi ta có thể có những nét chính của chiến lược quân sự của mỗi ứng cử viên.
Băt đầu với Đảng Dân Chủ (DC). Nếu Ông Al Gore đắc cử, quân đội Mỹ đang làm nghĩa vụ ở nước ngoài, sẽ đóng một vai trò tích cực hơn. Quân đội Mỹ cũng sẽ được cải tổ sâu rộng để được điều động dễ dàng trong những tình hình căng thẳng. Theo Gordon Adams, cố vấn quân sự hàng đầu trong Bộ Tham mưu Vận động Tranh cử, giảm thiểu việc điều binh Mỹ ra nước ngoài là một việc làm không thực tế. Quân đội Mỹ phải được sử dụng trong các cuộc hành quân bình thường cũng như bất thường. Quân đội cũng phải được cải tổ để có thể đảm trách các nhiệm vụ phi tác chiến. Mỹ là một siêu cường, dù ai là Tổng thống, cũng phải sử dụng quân đội để hỗ trợ chính sách ngoại giao.
Nhân vật thứ hai cố vấn quân sự cho Gore là Ashton Carter, giáo sư ĐH Harvard, chuyên viên về các nước Đông phương. Thứ ba là Leon Fuerth cho biết Gore là người chống gởi quân bộ chiến qua Nam Tư trong Chánh quyền Clinton trong năm 1999.
Nói chung, cố vấn quân sự của Gore đều xem quân đội Mỹ hiện tại là một lực lượng có khả năng nhứt, dù đang gánh một trách nhiệm nặng nề khắp thế giới. Quân đội sẽ được kiện tòan để: (1) phục vụ chiến lược có thể đáp ứng những nhu cầu thực tiễn và những nguy cơ thực sự, ý muốn nói đến Chương trình Phòng chống Phi đạn được Bộ Tham mưu Liên quân rất ủng hộ; (2) đầu tư cho các đơn vị bậc trung để có thể điều đi nhanh làm nhiệm vụ quốc tế; (3) lúc nào cũng sẵn sàng; (4) thân dân.
Thứ đến là quan điểm chiến lược của Đảng Cộng hòa. Nếu George W. Bush thắng cử, ông hưá sẽ đưa quân đội trở lại nhiệm vụ trọng yếu cuả thời trước [thời Đảng CH cầm quyền]: sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Ông Bush được những nhân vật nổi tiếng từng giữ những chức vụ trọng yếu trong ngành quốc phòng cuả chánh quyền CH trước đây và nay muốn trở lại chánh quyền sau tám năm do cặp Clinton - Gore kiểm soát. Số cố vấn này chia thành hai bên. Một bên do Dick Chiney, cựu Bộ trưởng Quốc phòng, vừa được Bush chọn làm ứng cử viên Phó Tổng thống trong cùng liên danh. Các cựu danh tướng như Powell, Scowcroft, trợ lực. Cheney lúc làm bộ trưởng QP thời Ông Bush cha, đóng vai trò quyết định trong chiến thắng Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh Ba Tư. Powell, nghe nói có thể được chỉ định làm Bộ trưởng Ngoại giao nếu Bush thắng cử, vốn là Chủ tịch Bộ Tổng Tham mưu Liên Quân. Dưới góc nhìn cuả công chúng, Ông là hiện thân cuả chủ thuyết quân sự “can dự thận trọng” do Bộ trưởng QP Caspar Weinberger chủ trương rằng quân lực Mỹ can dự ở nước ngoài chỉ khi nào quyền lợi tối yếu cuả Mỹ không thể cứu vãn được và vơí sự quyết tâm cao tham chiến và thắng lợi của nhân dân.
Nhóm thứ hai gồm các nhà chuyên môn về quốc phòng trong hậu trường chính trị thời Reagan-Bush. Họ tự gọi là những Vulcans, cầm đầu là Condolêezza Rice. Nhóm này làm các kế hoạch chi tiết, từng bước tiến cuả các cuộc điều quân Mỹ ở ngoài nước. Rice, một giáo sư ĐH Stanford, 35 tuổi đã là cố vấn trưởng đối ngoại cho Tổng thống Bush suốt thời gian Liên sô sụp đổ. Nếu Powell không là bộ trưởng ngoại giao, Rice sẽ là người nắm chức đó. Quan sát viên theo dõi vận động bầu cử còn nói Rice còn có thể là cố vấn quân sự và an ninh quốc gia cho Bush nếu đắc cử dù Rice là phận quần thoa. Rice sanh trưởng ở Burmingham, Ala, một thành phố luyện kim, lấy Thần Lưả và luyện kim gốc Hy La làm biểu tượng. Rice chủ trương lực lượng quân sự Mỹ phải sẵn sàng; đó phải là mối quan tâm hàng đầu cuả chiến lược quân sự Mỹ.
Ngoài ra, trong nhóm thứ hai này còn phải kể các phụ tá, thứ trưởng, cố vấn Bộ QP thời TT Reagan. Tất cả hai nhóm đều nghi ngờ khuynh hướng thường hay điều quân Mỹ đến các điểm nóng ở ngoại quốc cuả chánh quyền Clinton. Nắm được chánh quyền, Bush chắc sẽ xét lại việc dàn quân Mỹ ở hải ngoại để nắm cho kỳ được cái cán của việc ấy. Bush và Bộ Tham mưu cuả Ông cho rằng lực lượng Mỹ đã bị dàn quá mỏng trên quá nhiều nhiệm vụ. Rice nói, “Bush tin rằng lực lựơng Mỹ phải để dành làm những nhiệm vụ có thể thành đạt.” Những nhiệm vụ tựa như răn đe một cuộc chiến lớn, hay nếu cần, chiến đấu để giữ an ninh cho một vùng như đã làm rất thành công ở Vùng Vịnh.
Hai ứng cử viên Tổng Thống của hai Đảng Dân Chủ, Cộng Hòa, hai Bộ Tham Mưu thân cận về quân sự có hai cái nhìn, hai chiến lược quân sự khác nhau.Nhưng trong dị biệt có tương đồng lớn là nhu cầu không thể thiếu được. Đó là việc điều quân Mỹ ra nước ngoài để bảo vệ quyền lợi nước Mỹ, quyền lợi cao hơn quyền lợi đảng phái. Gởi thường, dàn quân mỏng hay dày là vấn đề nặng về chiến thuật do tinh tóan tình hình, hơn là vấn đề cốt lõi, gởi hay không gởi; cả hai Đảng đều nằm ở mẫu số chung, phải làm, và làm vì quyền lợị nước Mỹ.
Gore chủ trương kiện tòan lực lượng Mỹ linh động hơn trong việc điều động ra nước ngòai và tạo điều kiện thuận lợi để quân đội đóng vai trò tích cực. Bush chủ trương phải nắm cái cán của việc điều binh đi nước ngoài để chắc thắng.
Những ngày tháng sắp tới cử tri Mỹ sẽ là trọng tài tối hậu xem lập trường về quốc phòng nào dược nhân dân Mỹ cho là hợp với dất nước hơn để chọn một cách hết sức có trách nhiệm là đóng thuế để chi phí cho quôc phòng, một chi phí ngốn một phần lớn ngân sách quốc gia. Trong nhiều năm, chi phí quốc phòng Mỹ là công phí lớn nhứt của ngân sách liên bang, 19% cuả số chi của toàn liên bang. Cụ thể năm 1998 là 264 tỷ đô la. Chưa nói đôi khi phải trả bằng sinh mạng của người dân Mỹ. Từ lập quốc đến giờ, 1,303,490 người Mỹ đã đền nợ nước (tài liệu cuả Maris A. Vinovskis. 1989). Nội Chiến chết nhiều nhứt, 618,222 người. Ít nhứt là Chiến Tranh Vùng Vịnh, 148 ngươi thôi. Vì lẽ đó mà Bush mới lấy người và danh của cuộc chiến ấy để đánh bóng cho việc ứng cử cuả mình, che một phần nào điều mà dân Mỹ cũng dè dặt là gia đình trị. Nhưng ở xứ dân chủ lâu đời, nặng cá tính này, chế độ đó khó mà thực hiện nên chưa thấy ai để ý cả.