Đặng Dung quê Hà Tĩnh, sau vào lập nghiệp ở Quảng Nam, ông giúp cha là Đặng Tất (?-1409), cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh (Tàu) chiếm Đại Việt, nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (Giản Định đế) cùng chống giặc Minh. Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); Giản Định đế nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, Giản Định đế không đủ sáng suốt, đã giết lầm Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân), và Nguyễn Suý cùng đem quân vào Thanh Hóa, rước Trần Quý Khoách về Nghệ An lập lên làm vua, đế hiệu Trùng Quang; ông được giữ chức Đồng bình chương sự.
Vì nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, vua Trùng Quang sai Nguyễn Súy đem quân đánh úp thành Ngự Thiên, là nơi Giản Định đế đang trú quân, quân của Súy bắt được Giản Định đế, đem về Chi La, tôn làm Thượng hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung, ông vẫn bền lòng son sắt chống giặc, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách trung trinh một vị tướng. Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bậc hơn cả là trận đánh ở khu vực Thái Gia, vào tháng 9 năm Quý tỵ (1413).
Cũng trong năm 1413, nửa đêm ông dẫn một toán dũng sĩ, đột kích vào thuyền Trương Phụ, vì ban đêm không thấy rõ mặt, nên Trương Phụ nhảy xuống sông trốn thoát. Tháng 11 năm 1413, trong thế yếu, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị đang toan tính phò vua Trùng Quang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La để tính kế lâu dài thì bị Trương Phụ đem đại quân đến bao vây và bắt sống. Nguyễn Cảnh Dị tức giận, lớn tiếng chửi mắng Trương Phụ liên tục nên đã bị giặc giết tại chỗ.
Tháng 4 năm 1414, Đặng Dung cùng vua Trùng Quang, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Tàu). Dọc đường, vua Trùng Quang nhảy xuống biển tử tiết, Đặng Dung cũng trầm mình tử tiết theo.
Bài thơ “Thuật Hoài” của ông rất sâu sắc và cảm động.
Nguyên văn:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu tài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long truyền đới nguyệt ma
Nghĩa Nôm:
Việc đời lớn tuổi luống bâng khuâng
Ca hát vui riêng, chuốc lỗi lầm?!
Dân dã gặp thời suôn sẻ được
Anh hùng lỡ vận khó khăn phân
Phò vua tranh đất, lao đao nghiệp
Phục quốc nhìn trời, son sắt tâm!
Nợ nước chưa xong đầu đã bạc
Trăng soi mài kiếm biết bao lần!
Danh sĩ Lý Tử Tấn bình luận về bài “Thuật Hoài” của ông: “Vừa là người chí sĩ yêu nước nồng nàn, vừa là thi sĩ, mới có ý thơ sâu sắc, phong phú, như bài thơ Thuật Hoài”. Hiện nay ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh có đền thờ ông.
*- Thiết nghĩ: Ông Đặng Dung và thân phụ của ông, đều đem hết lòng phò vua giúp nước, tuy không công thành danh toại, nhưng với lòng trung liệt của nhà họ Đặng, cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ muôn đời.
Cảm phục: Đặng Dung
Xâm lược hung hăn, há nhịn nhường?!
Nằm gai, nếm mật chí kiên cường
Xuống thuyền vung kiếm, tan hồn giặc
Lên núi mài gươm, thẹn tóc sương
Thấy nước ngặt nghèo, đau khắc khoải
Nhìn vua lận đận, tủi miên trường!
Hồn trung phảng phất, lồng mây gió
Nòi giống ngậm ngùi, lưu luyến thương!.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn