Vào giữa tháng 7 năm 2000, cảnh sát đã đến nhà tôi và mời tôi đến cảnh sát cuộc. khi bị thẩm vấn tại cảnh sát cuộc, tôi mới biết được rằng cô bạn gái trước đây của tôi đã bị một người tôi quen hiếp dâm. Hiện anh ta đang bị giam giữ để chờ xét xử.
Cảnh sát đã cáo buộc tôi về tội đồng lõa hiếp dâm vì thủ phạm đã khai báo với cảnh sát rằng tôi đã cung cấp toàn bộ dữ kiện về người bạn gái cũ của tôi cho anh ta. Anh ta khai rằng tôi đã cung cấp địa chỉ, số điện thoại, tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ và tất cả các chi tiết cá nhân khác, đồng thời khai rằng tôi xúi giục anh ta làm chuyện tồi bại đó. Sau khi thẩm vấn, cảnh sát đã cáo buộc tôi về tội đồng lõa hiếp dâm. Hiện tôi đang được tại ngoại chờ ngày xét xử. Tôi đã ra trường nhưng chưa có việc làm.
Xin luật sư cho biết là việc cáo buộc tội trạng có tính cách độc đoán này đối với tôi có đúng với sự quy định của luật pháp hay không"
Trả lời: Theo luật pháp, "tòng phạm" (accessory) được xem như là người tham dự vào sự phạm tội của "chính phạm" (principal offender) và có thể bị xét xử và buộc tội như là "chính phạm".
Điều then chốt để quyết định trách nhiệm của kẻ tòng phạm là thời điểm mà "bị cáo" (the accused) bị cáo buộc là đã tham dự vào việc phạm tội. Nếu hành vi của bị cáo được thực hiện trước hoặc trong thời gian tội phạm xảy ra thì "bị cáo" sẽ bị kết buộc về "tội đồng lõa" (accessory).
Ngược lại, nếu hành vi của "bị cáo" được thực hiện sau khi tội phạm đã xảy ra - chẳng hạn việc giúp đỡ kẻ phạm tội "trốn tránh công lý" (to escape justice) - thì sẽ bị kết buộc tội "đồng lõa sau khi tội phạm đã xảy ra" (accessory after the fact).
Một người không thể bị kết buộc "tội đồng lõa" nếu tòa hoặc bồi thẩm đoàn không thể kết tội được "chính phạm", vì không có "chính phạm" thì không có "đồng lõa" như đã được xét xử trong vụ "Chính Quyền truy tố See Lun and Welsh" (1932).
Trong vụ này, "bị cáo" đã bị cáo buộc là "tòng phạm trước khi tội phạm xảy ra" (accessory before the fact). Mặc dầu căn nhà bị thiêu hủy toàn bộ và các nhiên liệu dễ bốc cháy của "bị cáo" đã được tìm thấy "tại hiện trường" (at the scene). Tuy nhiên không có bằng chứng rõ ràng về việc hỏa hoạn đã gây ra do sự cố ý đốt nhà. Và vì không đủ bằng chứng để kết tội "chính phạm" nên các bị cáo không thể bị kết tội "đồng lõa" được.
Điều này không có nghĩa rằng luật pháp không thể kết buộc một người về "tội đồng lõa" nếu không tìm thấy được "chính phạm". "Chính phạm" có thể được tha bổng, hoặc đang trốn tránh và có thể sẽ không bao giờ tìm thấy được để đưa ra xét xử. Tuy nhiên, nếu khi bồi thẩm đoàn hoặc tòa án dựa vào bằng chứng được trưng dẫn và thỏa mãn rằng tội phạm đã gây ra bởi "chính phạm" và cho rằng "bị cáo" đã liên lụy đến sự phạm tội, thì "bị cáo" sẽ bị kết buộc về tội đồng lõa, mặc dầu "chính phạm" vẫn còn tại đào.
Nếu yếu tố buộc "tội đồng lõa" đòi hỏi luật pháp phải kết tội cho bằng được "chính phạm" thì điều này sẽ đưa đến những khó khăn pháp lý khác, như trong trường hợp một em bé bị "xúi giục" (instigate) bởi "bị cáo" làm những điều phi pháp, ví dụ; ăn cắp giùm cho đương sự. Vì luật pháp không thể nào kết buộc trách nhiệm hình sự đối với các em bé còn quá nhỏ tuổi, nên không có "chính phạm" trong trường hợp này. Nếu áp dụng nguyên tắc "không thể kết buộc tội đồng lõa nếu không kết tội được chính phạm" thì liệu việc này có giúp cho bị cáo trở thành kẻ vô tội hay không"
Trong vụ R truy tố Demirian [1989], tòa đã đưa ra nguyên tắc sau: nếu A sợ bị vi phạm hình sự và xúi giục B làm giúp mình, và B không thể bị kết buộc vi phạm hình sự nếu làm điều đó, thì luật pháp sẽ xem A là "chính phạm.
Mặc dầu công tố viện phải chứng minh được rằng "bị cáo" đã xúi giục "đại biện vô tội" (innocent agent) để thực hiện "hành động phạm pháp" (a guilty act) giùm cho mình, điều này không đòi hỏi "bị cáo" phải hướng dẫn một cách rõ ràng để "đại biện vô tội" thực hiện hành động đó, như đã được xét xử trong vụ chính Quyền truy tố Cogan và Leak [1976].
Trong vụ này Leak và Cogan bị kết tội hiếp dâm vợ của Leak. Leak đã bị cáo buộc về "tội đồng lõa" vì theo "thông pháp" (common law) vợ của Leak được suy đoán là đã đồng ý "giao hợp" (sexual intercourse) với chồng của mình, vì thế Leak không bị kết tội là "chính phạm". Leak và Cogan cùng đi uống rượu, khi về đến nhà Leak, Leak đã nói với vợ của ông ta rằng Cogan thích "làm tình" với bà ta và Leak cũng đã thấy được sự ham muốn đó của vợ mình. Vợ của Leak đã chịu "làm tình" với Cogan vì sợ Leak, và vào lúc đó Leak đã thấy được rằng vợ mình đã không đồng ý. Cogan đã bị kết tội hiếp dâm nhưng bản án đã bị hủy bỏ khi kháng án, luật sư của Leak bèn tranh cãi rằng Leak không thể bị kết tội "đồng lõa" được vì không còn "chính phạm" trong vụ án đó nữa.
Tuy nhiên, lập luận này đã bị tòa kháng án bác bỏ với lý do là Leak đã phạm tội qua "đại biện vô tội" (innocence agent). Leak đã xúi giục Cogan hiếp dâm vợ mình, và Leak đã có ý định phạm tội đó. Vì thế Leak bị kết buộc là "chính phạm" không phải là "tòng phạm". Tòa cho rằng Leak không thể tin vào sự phỏng đoán của "án lệ" để cho rằng đã có sự đồng ý trong trong hôn nhân, vì sự phỏng đoán đó không thể áp dụng trong trường hợp người chồng dẫn dắt một người khác để "giao hợp" với vợ của mình.
Dựa vào nguyên tắc luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, tôi có thể cho ông biết được rằng việc ông bị cáo buộc về "tội đồng lõa hiếp dâm" (accessory to rape) là điều mà luật pháp đã có tiên liệu. Tuy nhiên, việc ông "bị cáo buộc" (charged) và việc ông "bị kết tội" (convicted) là hai điều hoàn toàn khác nhau. Trong trường hợp của ông, nếu bồi thẩm đoàn buộc tội "chính phạm" điều đó không có nghĩa là ông sẽ bị buộc "tội đồng lõa". Ngược lại, nếu "chính phạm" được tha bổng thì ông hoàn toàn vô tội.