Đến ngày 19 tháng 7 năm 1999, tòa án xét xử vụ án mạng John Newman chính thức bắt đầu, nhưng đến ngày 3 tháng 8 thì bị hủy bỏ. Sau đó, người bị bắt mà báo chí không được quyền nêu tên, đã chấp nhận cộng tác với cảnh sát, cung cấp những bằng chứng liên quan đến vụ án mạng. Kết quả, ngay sau đó, Thai Duy Dinh bị bắt và bị truy tố tội giết ông John Newman.
Ngày 7 tháng 2 năm 2000, phiên tòa thứ hai xét xử vụ án John Newman bắt đầu dưới sự chủ tọa của chánh án Justice Wood. Đến ngày 5 tháng 5, do bồi thẩm đoàn không đạt được sự đồng thuận 100% trong việc kết tội bị cáo, nên một phiên xử thứ ba được khai mạc dưới sự chủ tọa của chánh án John Dunford. Sau thời gian nhiều tuần lễ xét xử, cuối tuần qua, bồi thẩm đoàn đã đi đến phán quyết kết án ông Ngô Cảnh Phương phạm tội ám sát ông John Newman. Riêng hai bị cáo khác là Dao Tu Quang và Thai Duy Dinh, do thiếu bằng chứng xác quyết 100% nên được bồi thẩm đoàn phán quyết vô tội. Luật sư ông Phương cho biết, ông Phương sẽ kháng án.
Ngay khi bản án được công bố, có nhiều người vui mừng tin tưởng công lý đã được thực thi. Nhiều người quen biết ông Phương ngạc nhiên không tin được ông Phương lại có thể phạm phải một tội lỗi kinh khủng đến như vậy. Là một người Việt tỵ nạn cộng sản đầu tiên dấn thân trên con đường chính trường tại một xã hội tự do dân chủ, ông Phương đã đạt được những thành công khiến cho nhiều người Việt lẫn người Úc ngạc nhiên. Như vậy, động cơ nào, nguyên nhân nào đã khiến ông phải đi đến quyết định chọn lựa một giải pháp bạo lực để thực hiện điều mà công tố viện gọi là "tham vọng chính trị""
Hiển nhiên, trong thời gian qua, và ngay cả ở thời điểm hiện tại, một số người, nhất là những người Việt đã ít nhiều quen biết ông Phương, vẫn không tin được ông Phương lại là thủ phạm đã giết ông John Newman. Sự không tin đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, động cơ, lý do khác nhau. Tuy nhiên, nguyên nhân then chốt nhất, chính là do nhiều người, nhất là người Việt, đã không có được cơ hội và khả năng đầy đủ để theo dõi phiên tòa, theo dõi các bằng chứng được công tố viện trình bầy trong suốt thời gian xét xử.
Chắc chắn, tin tưởng vào công lý là bổn phận của mỗi người dân sống trong một xã hội tự do dân chủ. Nhưng niềm tin có được phải bắt nguồn từ chính trong tâm tư của mỗi người, và nó chỉ đến khi nào mỗi người Việt có được khả năng, cơ hội bình đẳng tiếp nhận kiến thức và dữ kiện pháp lý. Sự thiếu hiểu biết về luật pháp của quốc gia, khả năng ngôn ngữ tiếng Anh quá hạn chế, cộng với thời gian eo hẹp và những phức tạp trong tiến trình tố tụng hình sự, đã khiến cộng đồng người Việt không thể tiếp nhận những tin tức về cuộc xét xử một cách thấu đáo. Vì vậy, ta có thể tin tưởng mà nói rằng, nếu mỗi người Việt chúng ta có được khả năng Anh văn lưu loát, thấu hiểu tiến trình xét xử tại tòa, và theo dõi vụ xử một cách thận trọng, chắc chắn chúng ta cũng sẽ có được sự tin tưởng cần thiết và có được những phán xét hợp lý.
Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới từ xưa đến nay, chúng ta vẫn phải thừa nhận, phán quyết của bồi thẩm đoàn không phải lúc nào cũng là một chân lý bất khả thách đố. Vì vậy, tin tưởng vào phán quyết của tòa trong vụ án xét xử ông Phương vừa qua, chúng ta cũng nên có những hy vọng vào việc kháng án của ông Phương. Sự hy vọng của chúng ta không phải bắt nguồn từ tình cảm của những người cùng chủng tộc, cùng cảnh ngộ, cũng không phải bắt nguồn từ mối quan hệ, hoặc tình cảm qúy mến dành cho ông Phương trước ngày ông vướng vòng lao lý. Sự hy vọng của chúng ta thuần túy bắt nguồn từ niềm tin, một khi tòa án liên bang hoặc tối cao pháp viện xét xử vụ án ông Phương một lần nữa, thời gian sẽ cho phép những bằng chứng mới ló dạng, chúng ta sẽ theo dõi tiến trình xét xử một cách kỹ lưỡng hơn. Và khi đó, phán quyết của bồi thẩm đoàn và phán quyết của tòa chắc chắn sẽ gần với chân lý, gần với sự thật hơn. Và đó cũng là mục tiêu chính yếu của việc xét xử phúc thẩm và quyền kháng án của bị cáo được luật pháp công nhận.
Hữu Nguyên