Hôm nay,  

TƯỞNG NIỆM 35 NĂM CUÔC CHIẾN BIÊN GIỚI - KỲ II

20/02/201400:00:00(Xem: 10253)

TƯỞNG NIỆM 35 NĂM CUÔC CHIẾN BIÊN GIỚI

Nguyễn Mạnh Trí

Các bản tin tức từ quốc nội và hải ngoại về 35 năm tưởng niệm cuộc chiến Biên Giới:

KỲ II

1. BBC (16-2-2014): 'Nhảy múa cản trở người tưởng niệm 1979'

2. BSO (16-2-2014): 2014: Được và mất trong phân chia biên giới Trung-Việt: chủ yếu giải mật được và mất lần này!

  1. PL.TPHCM (16-2-2014): Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng: Không quên quá khứ, cũng không kích động thù hằn.
  2. BVN (18-2-2014): Máu người không phải nước lã.
  3. TTO (18-2-2014):Pò Hèn còn mãi khúc ca.
  4. ĐCV (15-2-2014):Đặng Tiểu Bình trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.
  5. BVN (19-2-2014): Sài Gòn kỷ niệm 35 năm đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược.
  6. ĐCV (19-2-2014): Các nhận thức của Việt Nam về cuộc chiến tranh 1979 với Trung Quốc.

*****

'Nhảy múa cản trở người tưởng niệm 1979'

BBC - Chủ nhật, 16 tháng 2, 2014

BG_01_nhay-content

Hình ảnh đưa lên mạng xã hội cho thấy nhóm người nhảy múa hôm Chủ nhật

Những người tìm cách đặt vòng hoa tưởng niệm cuộc chiến Việt – Trung bị cản trở bởi các cụ già và thanh niên nhảy múa trước tượng đài Lý Thái Tổ ở thủ đô Hà Nội.

Cảnh tượng hôm Chủ nhật 16/2 bị một số người xem là cách của chính quyền Hà Nội muốn ngầm cản trở đoàn người.

Sự việc xảy ra một ngày trước hôm 17/2, đánh dấu 35 năm chiến tranh biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và Trung Quốc.

'Nhảy múa vui vẻ'

Viết trên Facebook, nhà văn Thùy Linh, sống ở Hà Nội, mô tả: “Hôm nay dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ và tượng đài cảm tử, các cụ bô lão cùng các cháu đoàn viên thanh niên nhảy múa vui vẻ trước anh linh 6 vạn chiến sỹ đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược.”

Bình luận về cảnh nhảy múa, nhà thơ Đỗ Trung Quân, từ TP. HCM, viết trên trang Facebook cá nhân: “Nhảy nhót chả có gì sai, nhưng dàn trận để quấy rối những cuộc tưởng niệm đồng bào chiến sĩ trong ngày bọn xâm lược tấn công 35 năm trước thì trông hèn nhục.”

Tường thuật từ Hà Nội, bản tin của AP cho biết khoảng 70 người tham gia cuộc tuần hành gần Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội hôm Chủ nhật.

Họ khẩu hiệu chống Trung Quốc, chụp hình, quay video để đưa lên blog và Facebook. Sau khoảng 90 phút, những người tuần hành đặt vòng hoa tưởng niệm tại một ngôi chùa trước khi chia tay.

Phóng viên Chris Brummitt của hãng AP, từ Hà Nội, nhận định quan hệ với Trung Quốc, “đồng minh ý thức hệ và đối tác thương mại chính, là vấn đề chính trị trong nước rất nhạy cảm cho giới cai trị tại Hà Nội”.

“Họ không muốn sự giận dữ chống Trung Quốc trên đường phố lại lan sang các lĩnh vực khác chịu sự cai trị áp chế của họ,” phóng viên này viết.

Trước đó, một nhóm nhân sỹ hơn 70 vị, trong đó có những cái tên như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Quốc Thuận, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Trung..., hôm 12/2 ra Lời kêu gọi trong đó nói hành động tấn công Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là "hèn hạ, sỉ nhục".

BG_02_bieu_tinh-content

Vài chục người tham gia tuần hành hôm Chủ nhật 16/2

Các tác giả của lời kêu gọi, tự nhận là 'ưu tư về vận nước' yêu cầu chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc "chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc" ngày 17/2/1979 bằng nhiều hình thức.

*****

2014: Được và mất trong phân chia biên giới Trung-Việt: chủ yếu giải mật được và mất lần này!

Posted by News on September 4th, 2013 –Ba Sàm Online

Người dịch: Quốc Thanh

Việt Nam từ ngày độc lập khỏi triều Tống Trung Quốc đến nay, đường biên giới đã từng trải qua mấy lần biến động.

Thời Tống, tù trưởng Nùng Trí Cao ở đất Quảng Nguyên Châu (nay là tỉnh Cao Bằng, Việt Nam) làm loạn, bị triều Tống dẹp. Cuối Nguyên đầu Minh, Việt Nam thừa cơ Trung Quốc đang có nội loạn đã vượt qua biên giới hơn 200 dặm, chiếm Lộc Châu của Trung Quốc. Vào giữa đời Minh, Việt Nam thừa cơ Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam còn chiếm cả Ninh Viễn Châu (nay là Lai Châu và vùng đất phía bắc Lai Châu của Việt Nam) thuộc Vân Nam, Trung Quốc. Đầu đời Thanh, nội phủ Ngoại Lục Mãnh, huyện Kiến Thủy, Vân Nam (nay là huyện Kim Bình của Trung Quốc, huyện Phong Thổ của Việt Nam chạy suốt tới vùng đất phía bắc Lai Châu của Việt Nam), cũng chính là Châu Ninh Viễn ở Vân Nam đời Minh, đã trở về lại Trung Quốc.

Thời kỳ Pháp xâm lược Việt Nam, nhà Thanh xuất binh chống lại quân Pháp, với sự giúp sức của quân Cờ Đen, đã chiếm cả vùng phía bắc Việt Nam. Nhưng Pháp cũng đã chiếm cả vùng Bành Hồ, Đài Loan thuộc Trung Quốc, cắt đứt đường liên hệ giữa đại lục với Đài Loan, đồng thời đã tiêu diệt cả Thủy sư Nam Dương[ii]của Trung Quốc. Cho nên, Lý Hồng Chương đã ký với Pháp bản “Trung-Pháp tân ước”, trong điều ước quy định tiến hành điều chỉnh biên giới Trung-Việt trên cơ sở đường biên giới hiện có. 

Về hướng Quảng Đông (nay đã cắt toàn bộ về tỉnh Quảng Tây), các vùng đất lọt giữa[iii]như Giang Bình, Hoàng Trúc, Thạch Giác, Cú Đông ở Việt Nam (nay là Giang Bình, Hoàng Trúc ở Khâm Châu, Quảng Tây) cắt về Trung Quốc. Sử triều Thanh nói: Vùng Giang Bình, Hoàng Trúc ở tây nam Quảng Đông, từ Tư Lặc mở rộng biên giới ra biển, có chiều nam bắc 40 dặm, chiều đông tây tất cả 60 dặm.

Trên dãy Thập Vạn Đại Sơn có một mảnh đất tam bất quản (tức Quảng Đông không cần, Quảng Tây không cần, Việt Nam không cần), điều ước quy định mảnh đất này cắt về Trung Quốc, các vùng Phân Mao Lĩnh, Động Trung ở Thập Vạn Đại Sơn (nay là Động Trung thuộc Quảng Tây) đều cắt về Trung Quốc.

Các vùng có dân Việt như Bát Trang bên sông Ca Long[iv]… do sợ người Pháp, mà người Hoa lại cùng văn hóa cùng dân tộc, nên đã đua nhau đề xuất với quan viên Trung Quốc không muốn để cho người Pháp cai trị, đua nhau đổi sang trang phục triều Thanh, khi các quan viên Trung Quốc và Pháp cắm mốc phân giới khảo sát đường biên giới tại hiện trường, dân Việt đều chỉ đường biên giới ở phía nam, còn làng mình thì cắt về Trung Quốc.

Tình huống này xuất hiện nhiều lần ở dọc đường biên giới, khiến cho Trung Quốc thu về được rất nhiều lãnh thổ. Sử triều Thanh nói: Vùng Phân Mao Lĩnh, Gia Long, Bát Trang ở phía tây Khâm Châu Quảng Tây mở rộng biên giới tới sông Ca Long, chiều nam bắc 40 dặm, chiều đông tây tất cả 300 dặm. 

Ở Trấn Nam Quan về hướng Quảng Tây đều là núi cao hiểm yếu, là trọng địa biên phòng. Với nỗ lực của các quan viên đàm phán triều Thanh, trong vòng hàng chục cây số quanh Trấn Nam Quan, biên giới Trung Quốc đã tiến được thêm từ 20 đến 50 dặm, khiến cho rất nhiều khoảnh đất hiểm yếu được cắt về Trung Quốc.

Kim Long Động ở mé tây Long Châu, Quảng Tây là yếu địa biên phòng, trong lịch sử do Trung Quốc quản lý, nhưng thổ quan đất này đã thế chấp Hạ Lang Châu cho Cao Bằng, Việt Nam, đất này nằm ở dãy Đan Quế Sơn, dài hơn 60 dặm, là một vùng đèo hết sức hiểm yếu, gồm 90 ngôi làng. Với nỗ lực của các quan viên đàm phán, toàn bộ vùng đất này và 3 làng ở Lý Bản đã được thu về Trung Quốc.

Về hướng Vân Nam, Trung Quốc thu về 2 sơn trại Mạn Xung, Đổng Nữu ở đoạn thứ hai (2 sơn trại này đã bị An Nam xâm chiếm dọc ngang 30 dặm từ hơn 40 năm nay); đoạn thứ ba định ranh giới ở phía đông sông Lộc Sơn, mở rộng biên giới thêm hơn 40 dặm; đoạn thứ tư, cắt về Trung Quốc 6 ngôi làng Điền Bồng, Sa Nhân Trại…, mở rộng biên giới thêm hơn 30 dặm. Tổng cộng các đoạn trên mở rộng biên giới được thêm hơn 100 dặm, Trung Quốc không bị mất đất.

Trung Quốc thu về Đô Long, Mãnh Động, Nam Ôn Hà ở huyện Ma Lật Pha, vùng đất từ phía bắc, phía tây Nam Đan Sơn đến Cẩu Đầu Trại, Việt Nam (nằm ở Tiểu Đố Chú Hà), từ phía đông đến sông Thanh Thủy, Việt Nam (nay là Lão Sơn Hạ), đều quy về Trung Quốc quản lý. Đoạn biên giới này nằm ở giữa Đại Đố Chú Hà và Tiểu Đố Chú Hà, nguyên là đất Nam Lang, Mạnh Khang… của Trung Quốc còn chưa thu hồi, diện tích thu hồi được là khoảng 600 km2, vùng chưa thu hồi được là 400 km2. (1000 km2nằm giữa Đại Đố Chú Hà và Tiểu Đố Chú Hà nguyên thuộc về Trung Quốc, Hoàng đế Ung Chính đầu đời Thanh đã cấp cho Việt Nam).

Chính quyền nhà Thanh cho rằng, đất đai ở nam Ma Lật Pha khá màu mỡ, không chỉ thu hồi được lãnh thổ, mà còn thu được cả địa lợi. Còn đất đai ở Tam Mãnh thì toàn là sơn địa, không tiện cho quản lý, hơn nữa tù trưởng Tam Mãnh còn phụ bám với Việt Nam vào năm 1840, đã tiếp nhận các quan chức Việt Nam lại đồng thời tiếp nhận cả các quan chức Trung Quốc, thuộc về đất hai nước quản chung.

Nói một cách ngắn gọn, nếu mất Tam Mãnh sẽ khiến cho Trung Quốc bị mất tổng số diện tích đất đai là 1,600 km2. Cho nên, tóm lại, về hướng Vân Nam bị mất tổng cộng 1,000 km2không kể đường biên giới Trung-Lào. Còn xét về hướng Quảng Đông, Quảng Tây, thì lần hoạch định biên giới này lại có lợi cho Trung Quốc.

Vì thế, lần hoạch định biên giới Việt Nam Pháp-Thanh đối với Trung Quốc, diện tích đất đai được mất về đại thể là tương đương, nhưng những phần đất Trung Quốc được lại là đất màu mỡ nằm gần bờ biển và vũng vịnh, còn những phần đất Việt Nam được lại là vùng sơn địa không dễ quản lý (người Thái ở đó vừa ghét người Hán lại vừa ghét cả người Việt).

Hơn nữa, khi hoạch định biên giới, do người Việt sống dọc theo biên giới sợ sự cai trị của người Pháp nên đã đua nhau thay đổi trang phục, yêu cầu tiếp nhận sự quản lý của Trung Quốc, vì thế mà rất nhiều ngôi làng của Việt Nam dọc theo đường biên giới cũ đều đã được cắt về Trung Quốc khi phân giới cắm mốc.

Từ các sách sử Trung Quốc có thể thấy, chính quyền nhà Thanh khá thỏa mãn với lần hoạch định biên giới ấy, cho rằng không kể những nhượng bộ của Pháp khi phân giới cắm mốc (khi phân giới cắm mốc ở thực địa, do quân Thanh đã chiếm những địa hình có lợi cộng thêm với dân Việt bản địa không muốn tiếp nhận sự cai trị của người Pháp, nên khi phân giới cắm mốc Trung Quốc đã kiếm được một ít đất), đất đai thu hồi được vào triều Thanh nhiều tới hàng trăm dặm.

Trong các sách sử của người Pháp nói: Khi hoạch định biên giới, chúng ta đã cho Trung Quốc sự ưu đãi lãnh thổ rộng rãi. Thực tế là, đất đai được mất về đại thể là tương đương, nhưng những phần đất được của Trung Quốc thì tốt hơn. 

Sau ngày lập nước, Việt Nam cho rằng lần hoạch định biên giới ấy là không công bằng với Việt Nam, Việt Nam đã bị thiệt. Đã đưa ra với Trung Quốc yêu cầu về lãnh thổ rộng lớn. Đến năm 1979, Trung Quốc cho rằng phần lãnh thổ tranh chấp chỉ có 5 km2.

Trải qua cuộc Chiến tranh Trung-Việt năm 1979-1989, Trung Quốc đã chiếm phần lớn các điểm vòng cua[v]trên đường biên giới, như Đình Hào Sơn, Pháp Ca Sơn[vi]ở ranh giới giữa Quảng Tây và Việt Nam; Khấu Lâm Sơn, La Gia Bình Đại Sơn, Lão Sơn, Lão Âm Sơn ở ranh giới giữa Vân Nam và Việt Nam, tất cả những điểm cao này đều bị quân ta khống chế, các vùng tranh chấp trên đường biên giới như Nam Mộc Bình nằm ở ranh giới với Hoàng Su Phì, Việt Nam…, có tổng diện tích các khu vực tranh chấp mới tăng hơn 200 km2, những phần lãnh thổ này đã phải đánh đổi bằng sự hi sinh xương máu của các quân nhân Trung Quốc, tất cả đều đã bị ta khống chế.

Bản “Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt” năm 1999 [vii]đã giải quyết được triệt để những vấn đề biên giới trên đất liền Trung-Việt.

Về việc phân chia đường phân giới quốc gia vùng biên giới Trung-Việt, trên mạng lan truyền rất nhiều tin đồn, nếu như không đích thân tới hiện trường để khảo sát, thì thường sẽ không dễ đi đến kết luận bừa bãi. Ngày 30.5 [năm 2009] (ngày 31 phát lại), chương trình 《走读大中华》(tạm dịch “Tìm hiểu Đại Trung Hoa”) trên kênh truyền hình trực tiếp Phượng Hoàng (v.ifeng.com/live/) đã phát sóng một chuyên mục mới:“Tìm lại chiến trường xưa – Biên giới Trung-Việt du kí”(寻找远去的战场——中越边境纪行》,hiển thị lại hiện trạng vùng Lão Sơn thời chiến đấu ác liệt. Thời gian ghi hình chuyên mục này là vào Tiết Thanh minh năm nay[năm 2009], người dẫn chương trình Dương Cẩm Lân đã đích thân lên đỉnh chính Lão Sơn huyện Ma Lật Pha và tới viếng nghĩa trang liệt sĩ. Từ đây chúng ta biết được hiện trạng của một phần Lão Sơn: Cả quả núi bị chia làm hai, Trung Quốc Việt Nam mỗi nước một nửa, còn đỉnh chính thì nằm dưới sự kiểm soát của ta. (Cắt một vài hình ảnh quan trọng, ảnh có thể kích vào phóng to) Xét từ việc Lão Sơn mang ý nghĩa tượng trưng trong lòng người Trung Quốc, từ các công sự do quân ta xây đắp nên cùng địa hình nơi đây, thì chuyện Trung Quốc phải bỏ điểm cao khống chế đỉnh chính Lão Sơn là điều không thể xảy ra.

Trận địa đỉnh chính thuộc về Trung Quốc, khu vực tranh chấp chia mỗi bên một nửa.

Theo bản Hiệp ước biên giới đã kí kết sau Chiến tranh Pháp-Thanh, thì phần lớn vùng cao nguyên ở biên giới Trung-Việt thuộc phía Việt Nam hoặc điểm vòng cua là cùng hưởng chung. “Điểm vòng cua” chính là chỉ núi ranh giới trên đường biên giới, thường đường ranh giới quốc gia kéo dài dọc theo mỏm núi, điểm cao khống chế trên đường ranh giới quốc gia chính là “điểm vòng cua”. Điển hình ví dụ như các khu vực Lão Sơn, Pháp Ca Sơn, Giả Âm Sơn… 

Đường phân giới vào năm ấy không rõ ràng, phía Việt Nam chủ trương dùng đường mỏm núi nằm giữa hai cột mốc phân giới để vạch biên giới, còn Trung Quốc chủ trương dùng đường thẳng giữa hai cột mốc phân giới để vạch đường biên giới, nên đã tạo thành khu vực tranh chấp. Chúng ta thu hồi lại là mấy phần nhô ra theo đường biên giới do Việt Nam chủ trương, lấn sâu vào đường biên giới nằm về phía Trung Quốc.

Sau trận đánh trả phía Việt Nam, quân ta rút về trong nước, sau khi quân đội Việt Nam quay trở lại biên giới, điều quân chiếm lĩnh núi ranh giới của hai nước, do mấy khu vực này nằm sâu bên trong biên giới nước ta, nên khi người Việt Nam chiếm lần lượt các cao điểm xong, hỏa pháo liền có thể khống chế được cả một vùng rộng lớn nằm trong biên giới nước ta, vì thế mà mới có các trận tác chiến nhổ các cao điểm Lão Sơn, Pháp Ca Sơn, Giả Âm Sơn…

Mấy khu vực tranh chấp Lão Sơn, Pháp Ca Sơn, Giả Âm Sơn… này vốn nằm trong tay Việt Nam, trải qua những trận chiến đẫm máu, quân ta đã kiểm soát được trận địa nằm ở đỉnh chính các “điểm vòng cua” Lão Sơn, Giả Âm Sơn… trên đường biên giới Trung-Việt, trận địa cảnh giới tiền duyên đã công chiếm được còn chêm chặt vào lãnh thổ Việt Nam, hình thành nên hai phần nhô nhỏ ở khu vực Lão Sơn và khu vực Giả Âm Sơn. Đó chính là khu vực tranh chấp chủ yếu trong phân chia biên giới lần này, khoảng hơn 200 km2.

Hai phía Trung Quốc và Việt Nam vào cuối năm 1999 đã chính thức kí kết “Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt” tại Hà Nội. Trong số 164 khoảnh đường biên giới Trung-Việt, thuộc tổng diện tích cần giải quyết 227 km2 , còn chưa có sự nhất trí giữa hai phía, có khoảng 113 km2thuộc về Việt Nam, khoảng 114 km2thuộc về Trung Quốc.

1. Lấy Lão Sơn làm ví dụ, 7 mỏm núi, Trung Việt mỗi phía 3 mỏm. Trận địa đỉnh chính, đỉnh núi và mé phía bắc thuộc về Trung Quốc.

2. Pháp Ca Sơn là núi ranh giới của hai nước Trung Việt. Khi Việt Nam còn thuộc thực dân Pháp, “Hiệp ước Quế Việt Trung-Pháp”[viii]đã xác định vị trí núi ranh giới của Pháp Ca Sơn, đồng thời dựng cột mốc biên giới số 26 trên đỉnh chính.

Pháp Ca Sơn có 5 cao điểm, 5 mỏm núi của khu vực Pháp Ca Sơn. Cao điểm số 3 là đỉnh chính. Sau phân giới cắm mốc, các cao điểm số 1, 2, 3 do quân ta kiểm soát, còn các trận địa số 4, 5 nằm ở mé kéo dài về phía nam thì phân giới thuộc Việt Nam.

Trong thỏa thuận phân giới cắm mốc, trong phạm vi 10 km đối diện với Pháp Ca Sơn chưa tiến hành rò mìn, phía Việt Nam không được đóng quân.

(Kích vào có thể xem được bản đồ trận địa một phần khu vực Lão Sơn):

BG_03_ban_do-content

Tài liệu tham khảo: Tư liệu từ các trang mạng www.tiexue.net, www.laoshanlan.comvà do các cư dân mạng khác chuyển đến- Nguồn: Trang mạng Trung Quốc Baidu.com

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2013


Chú thích của người dịch:

[i] baidu.com là trang mạng tìm kiếm phổ dụng của Trung Quốc, trụ sở đặt tại Bắc Kinh.

[ii]Năm 1874, Nhật Bản điều quân đổ bộ lên Đài Loan, chính quyền nhà Thanh quyết định chấn chỉnh lại lực lượng thủy sư. Phân chia thủy sư thành Tam Dương: Thủy sư Bắc Dương phụ trách vùng Sơn Đông và biển Hoàng Hải ở phía bắc, Thủy sư Nam Dương phụ trách vùng phía nam Sơn Đông và biển Đông Hải ở phía ngoài Trường Giang, Thủy sư Phúc Kiến và Lưỡng Quảng… phụ trách vùng Phúc Kiến và biển Nam Hải.

[iii]Vùng đất lọt giữa: Tiếng Anh: enclave; tiếng Hán: phi địa (飞地). Vùng đất lọt vào giữa đất đai của nước khác.

[iv]Nguyên văn: Gia Long Hà 嘉隆河.

[v]Nguyên văn: kị tuyến điểm 骑线点 .

[vi]Chưa rõ tên gọi tiếng Việt của Đình Hào Sơn và Pháp Ca Sơn.

[vii]Tức Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1999.

[viii]Nguyên văn: 《中法桂越界约》. Quế 桂 là tên gọi tắt của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc .

When you activate these buttons by clicking on them, some of your personal data will be transferred to third parties and can be stored by them. More information here.

Permanently enable data transfer for:
Twitter
TwitterFacebook
Facebook

Tags: Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt, Lão Sơn, Nhà Thanh, Pháp
This entry was posted on Wednesday, September 4th, 2013 at 17:47 and is filed under Quan hệ Việt-Trung. You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0feed. Both comments and pings are currently closed.

*****

Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng: Không quên quá khứ, cũng không kích động thù hằn

Pháp Luật – TP Hồ Chí Minh - Chủ Nhật, ngày 16/2/2014

Cách đây 35 năm, đúng ngày này (17-2-1979), một cuộc chiến đã nổ ra. Trung Quốc (TQ) đã đưa 600,000 quân và một khối lượng khí tài quân sự lớn đồng loạt tấn công sáu tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. 

Các lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh biên giới đã kiên cường chống trả, ngăn chặn bước tiến của quân TQ, lớp lớp người đã ngã xuống để bảo vệ từng tấc biên cương của Tổ quốc. Cuộc chiến ấy đã gây ra những tổn thất to lớn và để lại những tổn thương lâu dài trong quan hệ Việt-Trung mà phải mất rất nhiều thời gian sau này hai bên mới có thể dần hàn gắn.

Nhân ngày này, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giaoLê Công Phụngđã dành cho Pháp Luật TP.HCMmột cuộc trò chuyện thẳng thắn, cởi mở xoay quanh sự kiện này. Qua câu chuyện, vị cán bộ ngoại giao kỳ cựu này bày tỏ khát vọng hòa bình của nhân dân hai nước cũng như những suy nghĩ về bước đi để hai bên khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.

. Phóng viên:Thưa ông,niềm vui thống nhất Tổ quốc chưa bao lâu thì chúng ta phải bước vào cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, rồi biên giới phía Bắc. Cả hai cuộc chiến đều liên quan tới TQ. Được biết ông sang làm ở Đại sứ quán tại TQ từ năm 1978, ông có thể giúp bạn đọc hình dung những căng thẳng trong quan hệ Việt-Trung lúc đó?


+ ÔngLê Công Phụng:Tôi làm ba năm, 1978-1980, thấy quan hệ hai nước xấu đi quá nhanh, chính mình cũng không hiểu nổi.

Những va vấp với nhau trước đó đã có nhưng không nhiều. Nhất là mới sau 1975, ta thắng Mỹ, nhân dân TQ rất phấn khởi, yêu mến, chia sẻ niềm vui thắng lợi của ta. Thế nhưng tình hình chuyển biến rất nhanh. Chuyến du lịch ngoại giao đoàn cuối cùng mà TQ tổ chức cho đoàn Việt Nam (VN), giữa 1978, kéo dài có vài ngày thôi mà thái độ cán bộ của họ đã thay đổi đến ngỡ ngàng. Những ngày đầu còn thân thiện, ân cần thì tới ngày cuối, khi chúng tôi trở về Bắc Kinh, cán bộ họ đã quay lại chất vấn đại sứ mình rất nhiều chuyện.

Đấy là những người không hiểu, không thông cảm với VN hoặc họ chịu sự chỉ đạo của cấp trên. Còn với những người thông hiểu tình hình, vốn rất thân thiết với mình thì giờ bỗng giãn ra. Họ không nói gì xấu mình nhưng né tránh tiếp xúc. Những người như thế, bản thân họ cũng vô cùng lúng túng, dằn vặt tâm trí.

BG_04_quan_di-content

Cuộc chiến tháng 2-1979 đối với VN là cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc. Đó là một cuộc chiến tàn khốc, để lại hậu quả lâu dài. Hành quân lên biên giới - Ảnh: Mạnh Thường 

Những vách ngăn phía sau cuộc chiến

. Quan hệ quốc tế suy cho cùng vẫn là vấn đề lợi ích. Giờ có độ lùi lịch sử nhất định, có thể đánh giá TQ được gì, mất gì trong cuộc chiến 1979?

+ Từ đầu những năm 70 thế kỷ trước, TQ tìm kiếm cái bắt tay từ Mỹ. Sau 1975, quan hệ Trung-Mỹ dù đã thiết lập nhưng chưa có nền tảng vững chắc. Muốn thúc đẩy quan hệ ấy, TQ lựa chọn phương cách ủng hộ Pol Pot chống VN, đưa quân đánh VN, đối đầu mạnh mẽ với Liên Xô (LX) để chứng minh sức mạnh của mình là nói được làm được. Họ chuẩn bị kỹ, cả về mặt dư luận trong và ngoài nước rồi mới động binh.

Song cuộc chiến cũng để lại cho họ nhiều hậu quả. TQ phát động đổi mới từ 1978 nhưng vì đánh VN mà quan hệ với LX, các nước XHCN, các nước thuộc thế giới thứ ba vốn ủng hộ VN thêm xấu. Các nước khác nhìn vào cho rằng TQ-VN chung ý thức hệ mà còn đánh nhau thì trở nên nghi ngại, không biết với mình họ thế nào. Chưa kể nếu để bất ổn kéo dài thì đổi mới trong nước khó mà thuận lợi được.

Tôi thấy đến giữa những năm 1980, họ nhận ra rằng cuộc chiến 1979 tuy giúp họ đạt được mục tiêu tại thời điểm đó nhưng về lâu dài hậu quả để lại khá sâu sắc. Như xử lý quan hệ với VN sau này luôn bị vướng víu bởi cuộc chiến đó. Sau cuộc chiến 1979, TQ có quan hệ gần gũi hơn với Mỹ để cùng nhau chống LX. Nhưng LX tới 1985 gặp khủng hoảng, phải tiến hành cải tổ, trở nên hòa hoãn với Mỹ, đồng thời khối XHCN Đông Âu thoát khỏi LX và sụp đổ, do đó lý do tăng cường quan hệ của Mỹ-TQ không còn nhiều nữa. Trong bối cảnh đó, quan hệ Việt-Trung được cải thiện dần. Biên giới bớt căng thẳng. Cùng với việc VN hoàn thành rút quân khỏi Campuchia, Việt-Trung đi đến bình thường hóa quan hệ (1992).

. Theo ông, đâu là khó khăn chủ yếu khi khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là trong việc đàm phán các vấn đề liên quan đến phân định biên giới hai nước?

+ Ngay sau chiến tranh biên giới phía Bắc, mình đề nghị TQ đàm phán biên giới lãnh thổ ngay và họ cũng chấp nhận. Nhưng đôi bên vẫn còn rất căng. Cứ diễn văn chuẩn bị sẵn là đọc, chỉ trích nhau, chả anh nào nghe anh nào. Xong rồi tổ chức họp báo, mời cả làng đến, lại tố cáo nhau. Lúc đó tiếng súng vẫn nổ trên biên giới, dù không có chiến sự lớn.

Phải nói là sau 1979, biên giới rất căng thẳng. TQ thích thì nã pháo, bắn phá; thích thì di chuyển cột mốc, lấn chiếm. Đêm trước họ vừa chuyển mốc sâu vào trong đất mình thì hôm sau mình lại đào đưa về chỗ cũ… Nói chung, vừa bắn nhau xong mà ngồi vào đàm phán rất khó.

BG_05_dieu_tan-content

Thị xã cao Bằng tan hoang sau cuộc chiến tháng 2-1979 - Ảnh: TL

Ai cũng muốn hòa bình, ổn định

. Cuộc chiến ấy đã gây ra những tổn thất to lớn, cũng như làm tổn thương cho quan hệ hai bên. Nhưng ông thấy đó, trong khu vực vẫn nhắc tới nguy cơ chiến tranh mà TQ có thể phát động. Vậy cần làm gì để tránh xung đột, tránh chiến tranh?

+ Lịch sử thế giới đã chứng minh chỉ có nước lớn gây chiến tranh với nước nhỏ, chỉ nước lớn mới lạm dụng vũ lực.Bản thân VN ta, trong các cuộc chiến tranh với nước lớn, thường bị đặt vào tình thế buộc phải đứng lên kháng chiến để giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc. Để tránh chiến tranh, xung đột, không cách nào khác, các nước nhỏ phải khôn khéo.

TQ dù thế nào đi chăng nữa thì suy cho cùng họ cũng muốn hòa bình, ổn định để phát triển. Và thế giới giờ đã khác. Khu vực cũng đã khác nhiều. Chiến tranh không dễ mà xảy ra. Nhưng để thoát khỏi nguy cơ chiến tranh, trước hết cái đầu các bên phải tỉnh táo, suy nghĩ cho thấu đáo. “Think Tank”, tiếng Anh là trung tâm nghiên cứu đầu não của các quốc gia nhưng đôi khi chiết tự theo nghĩa là “suy nghĩ” và “xe tăng”. Chiến tranh cũng là vì lợi ích, mà suy nghĩ cũng vì lợi ích. Vậy nếu suy nghĩ cho tốt mà giải quyết được vấn đề lợi ích thì cần gì phải chiến tranh!

Còn với VN, tôi nghĩ quan điểm xuyên suốt là phải tìm mọi cách tránh, thoát khỏi nguy cơ chiến tranh.Trước hết không nên làm gì để bị hiểu là gây khiêu khích. Và phải hiểu sâu sắc lợi ích của các nước lớn - vốn là đối tượng thường lạm dụng vũ lực nhất, để giải quyết bài toán ấy một cách hài hòa, nhằm hạn chế tối đa các động lực dẫn đến chiến tranh. Về vấn đề này, có một khoảng thời gian dài sau 1975, với “hào quang chiến thắng”, chúng ta đã hiểu chưa đúng mức để xử lý một cách khéo léo hơn trong quan hệ với các nước lớn - điều góp phần giúp ta hạn chế tối đa việc dẫn đến các nguy cơ xung đột. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, thiết nghĩ điều này càng phải được chú trọng và xử lý một cách sâu sắc hơn nữa.

Về đối nội, phải quan tâm hơn nữa tới công tác tuyên truyền. Làm sao để người dân hiểu sâu sắc tình hình, không quên quá khứ nhưng không vì nó mà dẫn tới tâm lý kích động, chủ nghĩa dân tộc thiếu tỉnh táo. Đây không phải vấn đề riêng của VN mà cả TQ nữa.

Niềm tin không đến từ một phía

. Năm vừa rồi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập tới việc “xây dựng lòng tin chiến lược”. Đây cũng là một yếu tố để xây dựng hòa bình, ổn định trong khu vực, ngăn ngừa chiến tranh?

+ Mình với TQ trải qua những thăng trầm lịch sử như thế thì đúng là khó xây dựng được sự tin cậy lẫn nhau một cách trọn vẹn. Trong bối cảnh ấy, có khi ta nói thật, họ không tin và họ giãi bày thật thì mình cũng không tin hết. Cho nên suy cho cùng để xây dựng tin cậy thì vẫn phải tạo gắn kết lợi ích chặt chẽ, hài hòa.

Ngoài ra, tin cậy chiến lược không phải chỉ giữa VN với TQ mà với cả các nước lớn khác, để các mối quan hệ đó tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Nhưng đây là việc khó khăn, lâu dài. Anh em trong nhà nhiều khi còn chưa tin nhau, huống chi giữa hai nước, nhất là khi từng trải qua chiến tranh, xung đột.

. Ta với TQ được xem là tương đồng về thể chế chính trị. Nhưng với các nước lớn khác thì việc khác biệt về thể chế chính trị có gây khó khăn gì cho việc gầy dựng tin cậy chiến lược?

+ Đây không phải vấn đề lớn. Một đảng hay đa đảng thì nước nào cũng cần quan hệ quốc tế. Ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện với một số nước nhưng không có nghĩa là ta với họ không có khác biệt. Vấn đề là quan hệ ấy đạt đến mức tôi nói - anh tin, anh nói - tôi tin, cái gì thỏa thuận được là làm được.

Chế độ chính trị là vấn đề đối nội hơn là đối ngoại. Đấy là lựa chọn của người dân, để phục vụ người dân một cách tốt nhất. Ở khía cạnh quốc tế, quan trọng là chế độ đó đủ sức đại diện cho quốc gia và cam kết một chính sách đối ngoại thống nhất. Cho nên nhiều khi chế độ một đảng lại tốt hơn đa đảng chính trị mà non nớt, thiếu ổn định. Thực tế, tình hình ở một số nước cho thấy đa đảng mà chưa đạt đến mức văn minh cao thì các đảng chính trị có khi lại chính trị hóa các vấn đề đối ngoại để phục vụ cho lợi ích của mình. Và điều đó có thể dẫn tới nguy cơ mâu thuẫn, xung đột giữa các quốc gia.

. Xin cảm ơn ông.

NGHĨA NHÂNthực hiện

*****

Máu người không phải nước lã

Tương Lai - Bauxite Vietnam - 18/02/2014

BG_06_bia_da-content

Phải đánh vật với bài viết này để đưa lên mạng kịp trong ngày 17.2 không phải vì đã cạn ý, nghẹn lời mà vì sự trăn trở chưa thể tự lý giải được cho mình: tại sao người ta buộc phải làm thế hay cứ muốn làm thế: Cố tình bắt dân tộc phải quên đi nỗi đau về một cuộc chiến tranh đã phơi trần bộ mặt thật của cái người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" trong suốt ngần ấy năm?

Không sao hiểu nổi khi cố tình lờ đi, quên đi, không cho nhắc lại, bỏ tù những ai muốn biểu tỏ lòng căm thù quân cướp nước gây nên cuộc chiến tranh đẫm máu trên đất nước ta do Trung Quốc tiến hành. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể từ cuộc chiến Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó. Một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc trên toàn tuyến biên giới với tội ác trời không dung, đất không tha, lặp lại điều cha ông chúng xưa kia đã từng làm: giết sạch, đốt sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã nhuộm đỏ trên biên cương tổ quốc.

Tôi vẫn cố tin và mong điều mình tin đó là sự thật: những người ra cái mệnh lệnh ấy, vạch đường lối ấy, thảo chủ trương ấy, đưa ra chỉ thị ấy dù là trên mực đen giấy trắng hay chỉ thị mật được truyền miệng trực tiếp đến các cấp ủy, đến hệ thống truyền thông, báo chí... cũng có trái tim yêu nước và căm giận bọn cướp nước. Vì, máu Việt Nam vẫn chảy trong huyết quản họ. Hàng ngày họ vẫn phải nhìn vào ánh mắt của con cháu họ, những ánh mắt tuổi thơ cần sự trong sáng và trung thực để lớn lên làm người tử tế. Họ, qua "đường giây nóng" hay chỉ là cấp thực hiện có thể ráo hoảnh thề thốt với phóng viên nước ngoài rằng không hề biết, hoặc không hề có những chủ trương, quyết sách, chỉ thị nọ, nhưng chẳng nhẽ lương tâm họ chai lỳ trước những lời nói dối để trong sâu thẳm tâm linh họ cũng chối bỏ nốt những thoáng dằn vặt hay run sợ "Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần" [Nguyễn Du].

Bởi chưng, máu người đâu phải nước lã! Anh linh của hàng vạn đồng bào và chiến sĩ của ta ngã xuống trên sáu tỉnh biên giới ba mươi lăm năm trước đây đã dồn góp vào, bồi đắp thêm cho khí thiêng sông núigiữ nhịp cho mạch sống đất nước, đang nâng đỡ chúng ta, nhắc nhở chúng ta, soi rọi đầu óc chúng ta, và cũng nghiêm khắc trách phạt, căn dặn chúng ta hãy sống trong cuộc đời này như thế nào.

"Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về" [Trịnh Công Sơn]. Ấy vậy mà Nguyễn Gia Thiều lại từng cảnh báo: "Kìa thế cục như in giấc mộng. Máy huyền vi mở đóng khôn lường"! Trong sự "mở đóng khôn lường" đó, cuộc sống tự mở lấy đường đi cho chính nó. Mọi vương triều, chính thể đều cuốn trôi theo dòng thác thời gian để cho sự sòng phẳng nghiêm cẩn của lịch sử phán xét chúng. Lịch sử gần và lịch sử xa đang hòa quyện vào nhau trong sự đa dạng và nhiễu nhương của thời cuộc hôm nay.

Những Trần Hưng Đạo rồi Trần Ích Tắc thế kỷ XIII, những Quang Trung Nguyễn Huệ và rồi Lê Chiêu Thống, thế kỷ XVIII đang được nhân bản với những gương mặt "hiện đại" của thế kỷ XX, rồi thế kỷ XXI này càng làm nổi rõ thêm lực tỏa sáng cũng như sức trĩu nặng của "đôi vầng nhật nguyệt" trên hai vai những người đương thời! Mà lịch sử có khi đi những bước chậm rãi nhưng không thiếu những chuyển động đột biến. Thế rồi, nói như Einstein "trong ánh chớp của những cơn giông sáng lòe của một giai đoạn chuyển động, người ta thấy các sự việc và con người như trần truồng... Các dân tộc chỉ bị thúc đẩy để phát triển bằng nguy cơ và chấn động, mong rằng những chấn động này dẫn tới những hệ quả tích cực".

Vậy thì, những bàn tay dại dột đang cố tình che dấu sự thật có che được nòng súng quân Trung Quốc xâm lược của

pháo Bằng Tường dội sang xối xả

dằng dặc dòng người sơ tán đổ về xuôi

Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao

nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác

hiển hiện những ngày xưa loạn lạc

biên ải xưa giặc giã mới tràn vào

những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại

máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới

vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần...

Miếng cơm ăn lẫn cát bụi bên đường

giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối

ngôi nhà không bỏ trống sau lưng

đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác

lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác

chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa

Trẻ con trên ôtô, trên xe trâu, xe thồ

trẻ con trên lưng trẻ con trên tay

trẻ con lon ton níu váy níu áo

đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai

một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi là gạo

mắt trẻ con cứ tròn thao láo

như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi...

Bịt thông tin thì bịt, nhưng bịt "ánh mắt trẻ con cứ tròn thao láo" mà nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả trong "chùm thơ mặt trận Lạng Sơn tháng 2.1979" thì quá táng tận lương tâm.

Ánh "mắt trẻ con cứ tròn thao láo" ấy đang nhìn ông chúng, nhìn cha chúng trong mâm cơm của các vị, trong giấc ngủ của các vị đấy. Chẳng nhẽ các cháu sẽ vẫn tiếp tục bị bưng bít về tội ác của quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến thanh biên giới tháng 2.1979 khi người ta gỡ bỏ yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa. Lời khẳng định “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền là vấn đề khác, bằng các giải pháp hòa bình, còn lịch sử là lịch sử, sự thật là sự thật” cũng bị bóc khỏi các trang mạng và trang viết. Một tít lớn chạy trên trang điện tử của báo Thanh Niên: “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979 - chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” chỉ giữ trên mạng có nửa buổi, sau đó biến mất! Chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’ dự kiến diễn ra tại Công viên Biển Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với lời cáo lỗi tội nghiệp của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa, rằng "do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo", một kịch bản vụng về, buộc người diễn phải ngậm bồ hòn làm ngọt để rửa mặt cho ai đó tọa lạc trên ngôi cao, quyền lớn.

Vậy thì ở đây, sự thậtkhông còn là sự thật nữa hay ai đó sợ sự thật? Trang viet-studiesngày 11-2-2014 đăng bài của Hoàng An Vĩnh thì nói toạc ra rằng "Cuộc trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng là lý do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt động tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc 1979". Liệu đây có phải là "sự thật"?

Nhưng hình ảnh kèm ngay đây thì chắc chắn là sự thật 100% không có gì phải bàn nữa. Hãy xem người ta chỉ đạo đục bỏ dòng chữ Trung Quốc xâm lược trên tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê. Ai chỉ đạo. Ai? Chẳng nhẽ nhân dân ta "vì đại cục", muốn giữ "hòa hiếu" với nhân dân Trung Quốc đã tự ý "đục bỏ lòng yêu nước" của chính mình?

BG_06_bat_nhang-content

Và rồi ai chỉ đạo quét nhiều lớp nước vôi rất dày để làm mờ đi dòng chữ ghi tên người nữ anh hùng Hoàng Thị Hồng Chiêm được khắc trên bệ đá đặt bức tượng của người con gái từng là biểu tượng sống động của tuổi trẻ trên tuyến đầu biên cương tổ quốc?

Trong bài báo có tên "Lại đục bỏ lòng yêu nước", nhà báo Lê Đức Dục viết: "Sau khi chị hy sinh, tên của chị được đặt cho ngôi trường cấp 2 xã Bình Ngọc (Móng Cái-Quảng Ninh) là trường Trung học cơ sở Hoàng Thị Hồng Chiêm. Ở góc trường có bức tượng chị Chiêm bằng xi măng đặt trên bệ đá, tay trái cầm khẩu AK, tay phải cầm thủ pháo, mắt nhìn thẳng kiên nghị về phía trước, chân dẫm lên chiếc mũ quân Tàu... Vậy rồi gần 4 năm trước, năm 2010, cũng không biết vì lý do gì, trường không còn mang tên Hoàng Thị Hồng Chiêm nữa, quay lại với tên cũ là trường THCS Bình Ngọc".



Chao ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm với tầm nhìn xuyên suốt lịch sử về vị thế địa chính trị của bán đảo hình chữ S này đã những muốn mở nước về phương nam để lùi xa bớt sức ép trứng chọi đá của nước láng giềng khổng lồ nhằm tạo dựng cái thế "vạn đại dung thân". Nếu cụ Trạng Trình mà sống lại thì chắc cũng phải lắc đầu chào thua cái "viễn kiến" hiện đại, tự co mình lại trong sự tự huyễn "lấy nhu thắng cương", kìm nén tối đa sức quật khởi của truyền thống dân tộc mà ông cha bao đời truyền dạy nhằm giữ lấy hòa khí với cái nước lớn "cùng chung ý thức hệ"!

Khốn nỗi, do lú lẫn hay hoang mang trong cơn bĩ cực đã biến chữ "nhu" thành nhu nhược, xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc, gây phẫn nộ trong nhân dân. Về chuyện này thì lịch sử cũng đã có ghi, nhất là vào những thời đoạn suy mạt của những vương triều. Không thiếu những hoàng thân, quốc thích vì muốn giữ cái ngai vàng ruỗng nát đang lung lay đã quỳ gối trước các thế lực xâm lược hoặc chạy sang Tàu cầu viện. Vì quyền lực gắn với lợi ích của riêng của bản thân, gia đình, dòng họ, chúng đã phản bội tổ quôc, rước voi dày mã tổ, bêu tiếng xấu muôn đời. Thế nhưng, hình như lịch sử không thấy ghi những chuyện như kiểu "đục bỏ lòng yêu nước" của thời hiện đại!

Hãy ngược dòng thời gian để có cái nhìn đối sánh, lướt qua những gì mà những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thời hiện đại cùng chung ‎thức hệ với Mao - Đặng và những hậu duệ của họ đã "vượt xa" những bậc tiền bối ra sao.

Thoát khỏi ách Bắc thuộc, bước vào kỷ nguyên Đại Việt thì tìm về dân tộcthân dânlà phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa, phải chăng đó là cội nguồn của hào khí "Đông A" khiến vương triều Trần huy động được sức mạnh của quân dân, "lấy ít địch nhiều", ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ XIII.

Sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một nhận định sâu sắc về ông vua thứ 7 báo hiệu thời suy vong của vương triều Trần: "Ông vua trụy lạc Trần Dụ Tông vẫn còn một điểm lương tri khi làm thơ ca ngợi đức độ Trần Thái Tông: "miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng". "Tuy đồng mà bất đồng" là một công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam-Trung Quốc. Đồng ở cách, bất đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng, kết quả Trung Quốc hóa, hội nhập văn hóa với Trung Quốc trên bề mặt, khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất- kết quả dân tộc hóa, giải Hán hóa dưới bề sâu. Thực thể dân tộc tính đầu đời Trần rõ ràng đến mức, trăm năm sau, cái ông vua thiếu quả quyết và bất lực như Nghệ Tông cũng biết nói một câu khôn ngoan, đúng đắn: "Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau".

Xin nhớ là nhà sử học uyên bác này chỉ điểm xuyết đôi dòng về thời suy mạt của một vương triều để chỉ ra điều nổi bật nhất trong tâm thế Việt Nam: quyết không bao giờ khuất phục phong kiến phương bắc cho dù kẻ bành trướng có sức mạnh áp đảo quyết đẩy dân tộc mình vào cái thế "châu chấu đá xe".

Chỉ e răng có khi vị sử gia uyên bác này chưa lường được cái sức mạnh của "ý thức hệ" được ghi đậm trên mười sáu chữ bịp bợm vẫn đang phù phép, biến hóa những việc làm phi đạo l‎ý, thất nhân tâm, quay lưng lại với dân, chà đạp lên truyền thống dân tộc biến thành "tinh thần cảnh giác cách mạng" nhằm chống lại "các lực lượng thù địch" làm mất uy tín của Đảng khi mà "còn Đảng là còn mình". Chẳng thế mà một ông từng giữ chức rất to không úp mở vòng vo, đã nói toạc ra rằng "mất vài hòn đảo chưa sao, mất Đảng là mất tất cả".

Chẳng trách mà bọn xâm lược đang nuôi mộng siêu cường sẵn sàng làm tất cả để thực hiện chủ nghĩa bành trướng sẵn sàng hà hơi tiếp sức cho những người đang cố níu kéo cái ‎"ý thức hệ" lỗi thời đã mục ruỗng nhưng vẫn đang là cái bình phong che chắn cho một thể chế chính trị đang triệt tiêu động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.

Chẳng phải là khi Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 xua hơn 60 vạn quân tràn sang sáu tỉnh biên giới thì "điều thực sự mà Trung Quốc muốn là " làm cho Việt Nam bị kiệt quệ cả về quân sự và kinh tế, và điều này sẽ diễn ra lâu dài". Đây là nhận định của tạp chí Mỹ" Tuần tin tức", số ra ngày 21 tháng 3 năm 1979.

Trong chuyến thăm Mỹ trước đó, ngày 1.1.1979, Đặng Tiểu Bình đã thăm dò về cuộc chiến tranh chống Việt Nam và phản ứng của Mỹ. Với ông ta, đánh Việt Nam chính là cách vạch rõ ranh giới bạn-thù, nói rõ Trung Quốc không còn anh em, tình nghĩa gì với Việt Nam nữa. Tại Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, Đặng nói: “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất nước mình, chúng tôi có khả năng không thể không làm những việc mà chúng tôi không muốn làm”. Tại Tokyo, Đặng nói với Thủ tướng Nhật Tanaka: “Không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “ đang suy tính, để trừng phạt dù có gặp những nguy hiểm nào đó cũng phải hành động”, ...“đối phó với loại người như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”. Thế đó!

Thật ra thì không phải đợi đến tháng 1 năm 1979, sau khi Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ năm 1975 Trung Quốc đã thực thi chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam, cái gai mắc ngang cổ họng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán không cho chúng nuốt trôi các nước Đông Nam Á và chiếm trọn Biển Đông.

Tên lính xung kích được chúng sử dụng là bè lũ diệt chủng PolPot ở Campuchia. Trung Quốc hứa viện trợ không hoàn lại cho chính quyền PolPot một tỉ đôla trong vòng năm năm, bao gồm kinh tế và quân sự. Theo AFP thì số viện trợ đó chiếm hơn một nửa tổng số viện trợ của Trung Quốc cho nước ngoài. Đặc biệt là về quân sự: từ bảy sư đoàn năm 1975 lên 23 sư đoàn; giúp xây dựng ba thứ quân và các binh chủng. Tổng số vũ khí mang nhãn hiệu Trung Quốc lên tới 450 khẩu pháo lớn, 294 xe tăng, 1.200 xe các loại, 42 máy bay; Trung Quốc đã cử hàng nghìn cố vấn quân sự đến Cam-pu-chia.

Thực chất cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam là nhằm thực thi âm mưu và thủ đoạn của người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cùng chung "ý thức hệ" chứ chẳng phải là ai khác cả. Chẳng những thế, Đặng Tiểu Bình còn láo xược gọi các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc tấn công Việt Nam khi nhân dân ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài ngót nửa thế kỷ, mình còn đầy thương tích là nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học".

Không hiểu những người trung thành với cái gọi là "ý thức hệ " với Đặng Tiểu Bình và những người kế tục ông ta đang ra sức bảo vệ cho mười sáu chữ bịp bợm có nhớ về "bài học" này không? Có thể người ta cố tình quên, nhưng thế giới thì họ nhớ. Tại Mỹ, bài báo nhan đề “Ai cho ai bài học" trên nhật báo phố Wall số ra ngày 6 tháng 3 năm 1979 đưa ra nhận xét: “Sau khi tính số lỗ lãi của đòn trừng phạt Việt Nam vừa qua của Trung Quốc, thế giới có thể nhất trí rằng: Trung Quốc đã phải rút khỏi cuộc chiến tranh với uy tín bị tổn thương và mặt mày đầy máu me, thương tích…".

Có người lại cố nghĩ rằng, không phải cố tình quên mà là cao kiến hơn, người ta cố nín nhịn để vận dụng chính sách Câu Tiễn sau khi thua trận ở Cối Kê, quyết nằm gai nếm mật để phục thù, rửa hận lấy lại giang sơn? Nếu có được cái quyết tâm đáng kính đó thì hãy nhớ rằng, những hậu duệ của Ngô Phù Sai thế kỷ XXI này ranh ma quỷ quyệt gấp vạn lần bậc tiền bối của họ. Hãy đọc lại những lời nham hiểm của Đặng Tiểu Bình vừa nêu ở trên thì cũng thấy được phần nào trong khi những Ngũ Tử Tư của thời hiện đại này thì chẳng ai chịu rỗi hơi khuyên can những người bị điếc đặc bởi tai đầy ắp những giáo điều ẩm mốc đã biến thành kinh nhật tụng.

Hay là ai đó định chịu nhục như Hàn Tín thuở hàn vi phải chui qua háng của anh bán thịt giữa chợ để mưu sự nghiệp kinh bang tế thế mà cuối thế kỷ XXI này không biết có thấy được không. Rõ ràng là chuyện "đục bỏ lòng yêu nước", hay cuống cuồng trước sự cau mày phật ý hoặc lời khiển trách qua đường dây nóng, so với chuyện chịu nhục để "lấy được thiên hạ" của người tráng sĩ ở Hoài Âm xưa thì chẳng thấm vào đâu. Chỉ có điều, những Lưu Bang, Hạng Vũ nơi xứ sở của hơn tỷ dân đang nuôi mộng siêu cường hôm nay không dễ bị lừa bởi những mưu vặt của người không biết khai thác cái lợi thế mà thời đại đang tạo ra để tự mình vươn lên hội nhập vào thế giới văn minh, tự cô lập để vuột mất thời cơ. Mà mất thời cơ là cái mất lớn nhất.

Ấy vậy mà, trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu này thì bộ máy truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc đánh trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân TQ vẫn hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công , bắt buộc quân đội họ phải tự vệ !

Và, cũng do sự "nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược do Trung Quốc tiến hành. E rằng, Hứa Thế Hữu, viên tướng Tổng chỉ huy quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới đã thất bại với chiến lược biển người quen thuộc chắc cũng tự an ủi rằng mình không bị chết bỏ mạng như viên tướng xâm lược của thế kỷ XVIII cũng họ Hứa, đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh, mà lại được thăng chức. Oái oăm hơn nữa là mười năm sau, ngày 19.9.2008 lại được báo Hà Nội Mới, "tiếng nói của Đảng bộ và Nhân dân Hà Nội" trong một bài viết nhan đề là "Thu phục tướng tài" đã ca ngợi viên tướng xâm lược bắn giết dân mình ở biên giới, hậu duệ của viên tướng xâm lược thế kỷ XVIII, là một tướng tài. Cần nói thêm rằng, Hứa Thế Hữu cũng chính là viên tướng chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa!

Đến Lê Chiêu Thống, kẻ đã rước Hứa Thế Hanh vào nước mình cũng chưa hề được nghe nói hay được đọc dòng nào là y đã tán tụng những tên xâm lược như hôm nay người ta đang làm. Quả là chẳng còn gì để nói.

Vì thế, không lạ khi vào những năm chẵn như năm vừa rồi kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đó kỷ niệm cuộc chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" đòn quyết định đánh sụp sức mạnh không quân của đế quôc Mỹ, đưa tới việc k‎ý kết Hiệp định Paris, các cuộc kỷ niệm ấy diễn ra rất rầm rộ và hào hùng. Thế nhưng, kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới đánh tan gần 60 vạn quân xâm lược Trung Quốc thì không khí lạnh tanh! Có chăng chỉ có sự náo động của lực lượng trấn áp, kể cả côn đồ được thuê để hành hung người biểu tình hô khẩu hiệu yêu nước chống bọn xâm lược.

Mọi sự dài dòng giải thích hay cao giọng rao giảng nhằm hạ nhiệt những bức xúc đang sục sôi trong tâm trạng xã hội trở nên trơ trẽn trước thực tế phũ phàng của những điều vừa dẫn ra! Chính cái đó nói lên tại sao lòng dân ly tán, trật tự an toàn xã hội rối loạn. Khi mà sự nói dối lộ liễu, "sự nói dối vĩ đại", đang cầm chịch cho nhịp đập của xã hội thì trách gì chuyện văn hóa xuống cấp, đạo lý‎ suy đồi.

Vậy thì, nếu "dân tộcthân dân" là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa buổi mở đầu kỷ nguyên Đại Việt cách đây mười thế kỷ khi đất nước khỏi ách bắc thuộc thì trong thời đại của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức hôm nay, biết vứt bỏ cái ‎ý‎ thức hệ lỗi thời, đặt lợi ích của dân tộc và tổ quốc lên trên hết và trước hết để thực tâm mở rộng dân chủ, công khai và minh bạch xây dựng nhà nước pháp quyền và mạnh dạn phát huy sức mạnh của xã hội dân sự nhằm huy động ‎ý chí và sáng kiến của dân, tạo ra một động lực mới, thúc đẩy phát triển. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, và cuộc sống sẽ mở đường đi cho chính nó.

Máu của đồng bào và chiến sĩ ta đổ ra trong các cuộc chiến tranh giữ nước đã thấm đẫm từng tấc đất, thước núi, triền sông, vụng biển sẽ không uổng nếu mệnh lệnh ấy của cuộc sống được thực hiện.

Ngày 16.2.2014

*****

Pò Hèn còn mãi khúc ca

TT – Địa danh Pò Hèn được biết đến như một bản hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới. Những ca khúc viết về mảnh đất này dành nhiều ngợi ca về Hoàng Thị Hồng Chiêm.

Căn nhà ấy nằm ngay trên đường từ Móng Cái ra Bình Ngọc. Cái rẻo đất ngay địa đầu biên giới nhô ra như một vành đai che chắn cho Móng Cái từ phía biển, phía bắc là địa bàn của phường Trà Cổ – nơi có mũi Sa Vĩ, nơi bắt đầu đặt nét bút để vẽ chữ S của bản đồ nước Việt, và phần còn lại phía nam là phường Bình Ngọc với mũi Ngọc cũng nổi tiếng không kém khi từ đây nối lên mũi Sa Vĩ làm thành bãi biển có chiều dài 17 cây số, được công nhận kỷ lục Guinness là bãi biển dài nhất nước!

Người con gái Bình Ngọc

Con đường từ Móng Cái ra Bình Ngọc đang được mở rộng còn ngổn ngang bùn đất, dễ nhận ra căn nhà có tấm biển kẻ sơn đỏ lên vách tường ghi “Nhà tình nghĩa – ngành thương mại Quảng Ninh và UBND huyện Hải Ninh tặng”. Đấy là món quà tình nghĩa của quê hương và đồng đội dành tặng gia đình Hoàng Thị Hồng Chiêm sau sự hi sinh của chị.

Trên đường từ Móng Cái ra Bình Ngọc, anh Hoàng Như Lý (cựu binh Pò Hèn tháng 2-1979) cứ nhắc mãi với chúng tôi hình ảnh chị Chiêm ngày xưa, ấn tượng nhất là đôi giày bata màu xanh gần như bất ly thân của chị. Trận chiến sáng 17-2 chống lại quân Trung Quốc năm ấy, nhiều cán bộ chiến sĩ của đồn Pò Hèn cũng bất ngờ trước khả năng sử dụng vũ khí của cô gái mậu dịch viên. Hóa ra trước khi chuyển ngành về cửa hàng thương nghiệp Pò Hèn, Hồng Chiêm từng có mấy năm đi bộ đội.

Trước khi cuộc chiến tranh biên giới nổ ra chừng một tuần, các khối lâm trường, thương nghiệp… đã được lệnh lùi về tuyến sau. Cửa hàng bách hóa thương nghiệp Pò Hèn cũng thế, chỉ còn một ít hàng được giữ ở kho. Anh em thay nhau lên trông coi, bảo vệ. Chiều 16-2, Chiêm được lệnh lên cửa hàng cũ dọn dẹp một số hàng ở kho, tiện dịp cũng qua thăm Lượng, người yêu của chị, đang là cán bộ đội vận động quần chúng của đồn biên phòng Pò Hèn. Dọn dẹp, niêm phong kho xong, từ cửa hàng thị trấn Hồng Chiêm lên đồn xem trận bóng chuyền của anh em. Lượng cũng là một tay đập chủ công của đội bóng đồn.

Sáng hôm sau khi trận đánh bất ngờ diễn ra, từ cửa hàng Hồng Chiêm chạy về phía đồn, sát cánh chiến đấu cùng anh em chiến sĩ.

Và những nhân vật trong khoảnh khắc đó đều có trên tấm bia tưởng niệm. Trên bia, ngoài liệt sĩ Đỗ Sĩ Họa đầu tiên, tên của liệt sĩ Bùi Văn Lượng, người yêu chị Chiêm, có thứ tự là 5, liệt sĩ Nguyễn Văn Dụng xếp thứ 21, Nguyễn Văn Mừng xếp thứ 26 và Hoàng Thị Hồng Chiêm xếp thứ 59. Không chỉ có duy nhất chị Chiêm là nữ liệt sĩ hi sinh trong trận đánh bảo vệ biên giới ấy, trên bia chúng tôi còn thấy khá nhiều nữ liệt sĩ có tuổi đời chỉ mới 17-20 như liệt sĩ Nguyễn Thị Ruỗi sinh năm 1962, quê Tiên Lãng (Hải Phòng) cũng hi sinh vào sáng 17-2-1979 ấy, hay liệt sĩ Vũ Thị Tới sinh 1961 (18 tuổi), rồi Đặng Thị Vượng, Đỗ Thị Mâu, Hoàng Thị Nết, Nguyễn Thị Lèn, Vũ Thị Mười, Cao Thị Lừng… Những cô gái tự vệ lâm trường Hải Ninh ấy, khi ngã xuống hình như chưa cô nào đã có người yêu như chị Chiêm…

BG_07_di_anh-content

Di ảnh liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm trên bàn thờ gia đình – Ảnh: Ngọc Quang Quang

Mai sau dù có bao giờ…

Tiếp chúng tôi trong căn nhà tình nghĩa của ngành thương mại xây tặng là anh Hoàng Văn Lợi, em trai của chị Chiêm. Trong gia đình, chị Chiêm là con thứ ba, cũng thật bất ngờ khi được biết người chị ruột của Hồng Chiêm, chị Hoàng Thị Liễm, là vợ của trung tướng, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Đoàn Sinh Hưởng, tướng Hưởng cũng là người quê ở phường Bình Ngọc (Móng Cái) này.

Trên bàn thờ, tấm hình chị Chiêm được truyền thần từ một tấm hình chụp chị mặc quân phục bộ đội và mũ tai bèo sang áo dài truyền thống. Anh Lợi bảo: Chị Chiêm ngoài đời thật còn xinh hơn trong tấm hình đang thờ, nhất là đôi mắt như có lửa. Năm 1972 chị Chiêm đi bộ đội, đóng quân ở Quảng Yên thì Lợi còn rất nhỏ. Biên giới thuở ấy cũng đang bình yên. Ký ức của Lợi là lần chị Chiêm về phép, tranh thủ chủ nhật nghỉ đưa mấy em sang Đông Hưng (thành phố giáp biên Móng Cái của Trung Quốc) đi chơi, mua cho mấy chiếc kẹo. Sau năm 1975, xuất ngũ thì chị Chiêm chuyển sang ngành thương nghiệp và lên bán hàng ở Pò Hèn. Chặng đường từ Pò Hèn về Bình Ngọc chỉ hơn 50 cây số nhưng thuở ấy đường sá khó khăn lắm, không thể thường xuyên về nhà được, mấy năm về sau tình hình căng thẳng chị Chiêm lại càng ít về hơn.

Buổi sáng 17-2-1979 chị Chiêm hi sinh nhưng phải mấy ngày sau gia đình mới nhận được tin báo. Mộ chị cũng được an táng ở khu vực Tràng Vinh, sau đó khu vực này xây cất một công trình gì đó nên được quy tập về địa bàn khác, nhưng người được giao nhiệm vụ báo tin cho gia đình lên cất bốc lại quên mất. Mộ chị Chiêm được quy tập về xã Hải Hòa nhưng gia đình không hề biết. Mãi sau này một người bà con trong thôn khi đi viếng mộ người thân ở nghĩa trang Hải Hòa, thấy tên tuổi chị Chiêm trên bia mới vội vã chạy về báo cho biết và sau đó anh chị em mới đưa hài cốt chị Chiêm quy tập về nghĩa trang gia đình.

Sau khi Hoàng Thị Hồng Chiêm hi sinh, năm 1984 tên chị được đặt cho ngôi trường cấp II xã Bình Ngọc là Trường trung học cơ sở Hoàng Thị Hồng Chiêm. Sân trường có bức tượng chị Chiêm bằng ximăng đặt trên bệ đá, tay trái cầm khẩu AK, tay phải cầm thủ pháo, mắt nhìn thẳng kiên nghị về phía trước. Bao thế hệ học trò Bình Ngọc đã được học dưới mái trường mang tên chị, thấm đẫm niềm tự hào về người nữ liệt sĩ của quê hương và ngày ngày hát vang lớp học những bài ca ca ngợi tấm gương liệt nữ.

Theo chân người em ruột của chị Chiêm ra thắp nhang cho chị, chúng tôi chợt thấy se lòng. Nén nhang thắp như chực tắt trước cơn gió bấc buốt giá cứ thổi bạt đi, và khi nhang bén chợt bốc cháy rừng rực trong buổi chiều cuối năm ở cuối trời đông bắc địa đầu đất nước…

Địa danh Pò Hèn được biết đến như một bản hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, nhưng Pò Hèn càng nổi tiếng hơn khi những ca khúc viết về mảnh đất này lại dành nhiều ngợi ca về Hoàng Thị Hồng Chiêm, cô gái mậu dịch viên của cửa hàng thương nghiệp Pò Hèn đã hi sinh khi chiến đấu vào sáng 17-2-1979.

Cả ba ca khúc viết về Hoàng Thị Hồng Chiêm đều của những nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng sáng tác và trình bày. Ngoài Bài ca trên đỉnh Pò Hèn của nhạc sĩ Thế Song qua giọng ca Lê Dung mà chúng tôi từng nhắc, còn có Bông hoa Hồng Chiêm của nhạc sĩ Dân Huyền với tiếng hát của ca sĩ Kiều Hưng và Người con gái trên đỉnh Pò Hèn của nhạc sĩ Trần Minh, ca sĩ Tuyết Nhung trình bày. Cả ba tác phẩm ấy đều đã được lưu lại trong Bài ca đi cùng năm tháng.

*****

Đặng Tiểu Bình trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979

Đàn Chim Việt – 15/2/2014

BG_08_Dang_Tieu_Binh-content

Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.”

Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?

Đảng CS Trung Quốc hy sinh quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.

Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều

Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ ngã Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Quốc khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.

Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực

Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.

Nỗi sợ bị bao vây

Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ cá lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.

Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968. Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.

Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.

Cambodia, giọt nước tràn ly

Không những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.

Quyết định của Đặng Tiểu Bình

Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẻ trong nội bộ Bộ Chính Trị, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.

Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978, Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.

Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.

Lên đường thuyết khách tìm đồng minh

Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.

Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.

Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.

Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ

Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Y nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không có gì chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ trong vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Quốc đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.

Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Quốc cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.

TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”

Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn.

Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đã đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.

Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979 Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tâ;n công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.

Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên giới?

Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nở lòng đem quân đánh đàn em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”

Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Quốc. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979“Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ.

Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.

Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.

Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979

Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẳn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).

Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.

Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.

Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.

Trần Trung Đạo

Tham khảo:


- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
- A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
- Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
- “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
- Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo

*****

Sài Gòn kỷ niệm 35 năm đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược

Huỳnh Ngọc Chênh - Phạm Đình Trọng – Bauxite Vietnam - 19/02/2014

BG_09_SG_ky_niem_1-content

Đúng 11 giờ sáng ngày 18.2.2014, hơn 25 nhân sĩ trí thức và khoảng 40 nhân viên an ninh cùng có mặt tại tượng đài Trần Hưng Đạo tại công trường Mê Linh quận 1 Sài Gòn để cử hành lễ tưởng niệm ngày nhân dân Việt Nam đứng lên chống chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng Bắc Kinh tại biên giới phía Bắc cách đây 35 năm.

Các vòng hoa và các khẩu hiệu được mọi người tự giác mang đến được đặt dưới chân tượng đài Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc đã nhiều lần lãnh đạo nhân dân đánh tan quân xâm lược phương Bắc. Buổi lễ bắt đầu bằng bài diễn văn ứng khẩu của giáo sư Tương Lai:

Thưa các bạn

Chúng ta tập họp tại đây, dưới chân tượng đài Thánh Trần biểu tượng oai hùng nhất, đẹp nhất cho ý chí quật khởi và tinh thần quyết chiến, quyết thắng trước giặc phương Bắc xâm lược, cho dù chúng hung hãn, dữ dằn và xảo quyệt đến đâu, để bày tỏ khát vọng và quyết tâm của chúng ta quyết xứng đáng với ông cha ta.

Hôm nay kỷ niệm 35 năm ngày quân và dân ta đánh bại quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới do Đặng Tiểu Bình phát động, gây bao thảm hoạ đau thương cho dân tộc ta khi nhân dân ta vừa ra khỏi gần ½ thế kỷ chiến tranh, thương tích còn đầy mình. Chúng giết sạch và phá sạch như cha ông chúng xưa kia đã làm.

Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã thấm đẫm trên 6 tỉnh biên cương Tổ quốc. Ấy thế mà vì lẻ gì người ta cố tình quên, buộc cả dân tộc phải quên cuộc chiến tranh tàn khốc đã lột trần bộ mặt thật của Đặng Tiểu Bình và chính quyền Bắc Kinh để chúng tiếp tục những âm mưu, thủ đoạn của chúng hôm nay.

Chúng ta không thể quên- Kiên quyết không quên (mọi người hô đáp lại)

Chúng ta cực lực lên án tội ác của Trung Quốc xâm lược (mọi người hô đáp lại)

Chúng ta kiên quyết vạch trần thủ đoạn của những ai đang tìm mọi cách bịt miệng người dân, “đục bỏ lòng yêu nước” để tiếp tục thủ đoạn bịp bợm bằng 16 chữ lừa mị nhân danh cho cái gọi là “cùng chung ý thức hệ”.

(mọi người hô: kiên quyết)

Chúng ta xin thề trước anh linh Tổ Quốc, trước anh linh của chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến tranh xâm lược, sẽ xứng đáng với dòng máu Việt Nam đã chảy. Máu người không phải nước lã, chúng ta kêu gọi người người lãnh đạo còn lương tri hãy đặt Tổ Quốc lên trên hết để không tủi hổ với những người đã chết.

Xin thề trước Anh linh của đồng bào và chiến sĩ sẽ xứng đáng với họ.

(Mọi người hô: Xin thề)

Sau đó nhiều khẩu hiệu hô vang trong đó có khẩu hiệu "đả đảo bọn Trung Quốc xâm lược", "kiên quyết vạch trần thủ đoạn những ai tìm mọi cách bịt miệng nhân dân"...

Những người dự lễ tưởng niệm đã làm lễ mặc niệm và thắp hương cho anh linh các liệt sĩ và nhân dân đã ngã xuống tại biên giới phía Bắc vào năm 1979 trong trận chiến đẫm máu chống lại quân Trung Quốc xâm lược. Trong khi đó các nhân viên an ninh và công an chìm nổi miệt mài và chăm chỉ chụp hình và quay video ghi lại toàn bộ buổi lễ cũng như ghi chi tiết từng khuôn mặt những người đi dự lễ. Có hơn 30 máy chụp hình và quay phim đếm được trong số gần 40 nhân viên an ninh bám sát theo những người dự lễ.

Tuy vậy buổi lễ tưởng niệm diễn ra trong không khí thành kính, trang nghiêm và ôn hòa.

Buổi lễ phải tổ chức vào sáng nay vì hai ngày trước đây, những người chủ chốt thực hiện lễ tưởng niệm đã liên tục bị người lạ mặt theo dõi và ngăn chặn trước cửa nhà. Sáng nay lệnh theo dõi và ngăn chặn dường như bị bãi bỏ nên những người tham gia buổi lễ đã ra ám hiệu liên lạc với nhau và bất ngờ xuất hiện tại tượng đài Trần Hưng Đạo vào lúc đúng giờ nên buổi lễ đã diễn ra tốt đẹp. Tuy vậy vẫn có một số người đã không đến được để dự lễ do những trục trặc bất ngờ mà chưa xác định được nguyên nhân.

Một vị nhân sĩ trí thức đã cay đắng nói sau khi kết thúc buổi lễ: Đi biểu lộ lòng yêu nước và thắp nhang cho các liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc mà phải chuẩn bị thầm lén, thông báo cho nhau toàn ám hiệu như là đi cướp nhà băng. Cái thời đại gì mà kì hoặc không thể nào tưởng tượng ra.

Rút kinh nghiệm việc dùng những người khiêu vũ để phá lễ tưởng niệm tại Hà Nội gây ra cơn địa chấn thông tin trên toàn cầu về cách làm kỳ khôi không giống ai của nhà cầm quyền VN, buổi lễ tưởng niệm tại Sài Gòn đã không bị quấy rầy dù lực lượng an ninh tuy bất ngờ vẫn tập trung đông gấp đôi số lượng người đi dự lễ.

H.N.C.

Ảnh của Bảo An Phạm và Paulo Thành Nguyễn

Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.com

Sự kiện đau thương và hùng tráng diễn ra từ ngày 17.2.1979: Trung Quốc bất ngờ phát động cuộc chiến tranh chống Việt Nam, kéo đại quân tràn qua toàn dải biên giới nước ta bắn giết dân ta và quân dân ta đã anh dũng đánh trả quân xâm lược, biến chiến thuật cướp đất bằng biển người thành biển xác, biển máu quân xâm lược.

Cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược mới diễn ra 35 năm trước. Hàng vạn đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, hi sinh mạng sống bảo vệ biên cương Tổ quốc. Những người Việt Nam vừa mới lẫm liệt ngã xuống cho sự sống còn của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cha mẹ họ vẫn đang sống trong nỗi ngậm ngùi thương nhớ con. Vợ con họ vẫn đang sống trong nỗi khắc khoải vì sự trống vắng của họ. Nhưng từ sau cuộc gặp Thành Đô của với lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc, coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần thiết hơn sự sống còn của đất nước Việt Nam, cần thiết hơn sự sống còn của dân tộc Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam đã biến kẻ thù cướp đất Việt Nam, giết dân Việt Nam thành bạn vàng ý thức hệ. Từ đó hàng năm, ngày 17 tháng hai đau thương và hùng tráng đến trong lạnh lùng, lặng lẽ. Nhà nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn thờ ơ, im lặng trước một trang sử oanh liệt còn tươi máu hàng vạn sinh mạng Việt Nam. Nhà nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn nhẫn tâm, vô cảm trước nỗi đau của hàng vạn gia đình Việt Nam mất người thân trong cuộc chiến đấu giữ nước ở biên giới phía Bắc mới diễn ra 35 năm trước.

Phản bội người đã khuất. Phản bội người đang sống. Lạnh lùng câm lặng trước sự kiện lịch sử bi tráng viết bằng hàng vạn dòng máu Việt Nam yêu nước, nhà nước cộng sản Việt Nam còn phản bội cả lịch sử Việt Nam.

Không chấp nhận cách ứng xử phản dân tộc, phản lịch sử đó của nhà nước cộng sản Việt Nam, trái tim yêu nước của những người Việt Nam chân chính đòi hỏi sự kiện 17.2.1979 bi tráng và hào hùng không thể bị lãng quên, trang sử Việt Nam oanh liệt mùa xuân 1979 không thể bị lãng quên, dòng máu Việt Nam làm nên trang sử đó không thể bị lãng quên.

Ngày 16.2.2014, những trái tim Việt Nam yêu nước đã tổ chức thành công sự kiện 17.2.1979 ở thủ đô Hà Nội. Thành công vì lễ kỉ niệm 17.2.2014 đã nhắc nhở được đông đảo người dân thủ đô biết đến một trang sử đau thương và anh hùng của đất nước. Thành công vì đã chỉ ra được bộ mặt thật của kẻ luôn thơn thớt bốn tốt, mười sáu chữ vàng. Thành công vì lễ kỉ niệm 17.2.2014 đã phơi bày ra những trò hề lố lăng, thảm hại của nhà nước cộng sản Việt Nam khi phải đối phó với lòng yêu nước nồng nàn chính đáng của người dân Việt Nam.

Ngày 18.2.2014, những trái tim Việt Nam yêu nước đã tổ chức trót lọt sự kiện 17.2.1979 ở Sài Gòn. Trót lọt vì những người khởi xướng, tổ chức lễ kỉ niệm bị rình rập, theo dõi, giám sát chặt chẽ 24/24. Trót lọt vì ngày 17.2.2014, nơi có ý nghĩa nhất ở Sài Gòn để tổ chức lễ kỉ niệm đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược mùa xuân 1979 đã bị lực lượng CSCĐ113 và đông đảo các thành phần công cụ bạo lực chuyên chính vô sản chốt giữ. Nhưng lễ kỉ niệm vẫn được tổ chức ở nơi đã lựa chọn.

Lễ kỉ niệm sự kiện bi tráng 17 tháng hai năm trước ở Sài Gòn chỉ có những trí thức U50, U60, U70, tóc trên đầu đều đã pha sương. Năm nay, bên những trí thức của năm trước vẫn có mặt đông đủ còn có nhiều gương mặt trẻ và đó là điều đáng mừng nhất trong lễ kỉ niệm sự kiện 17.2.1979 ở Sài Gòn mùa xuân này.

*****

Các nhận thức của Việt Nam về cuộc chiến tranh 1979 với Trung Quốc

Henry J. Kenny, Center for Naval Analysis

Ngô Bắc dịch - Đàn Chim Việt – 19/2/2014

Tiến Sĩ Henry J. Kenny, là một nhà khoa học nghiên cứu tại Trung Tâm Phân Tích Hải Quân (Center for Naval Analysis: CAN) nơi ông đã điều khiển các dự án cho Hải Quân Hoa Kỳ, Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương trong hơn thập niên qua. Từng là một Đại Đội Trưởng, Trưởng Toán Lực Lượng Đặc Biệt, và Cố Vấn Cấp Tỉnh tại Việt Nam, ông đã điều hành việc huấn luyện nhiệm vụ cho Các Lực Lượng Đặc Biệt sang Việt Nam tại Ft. Bragg. Bị thương trong cuộc Công Kích Tết Mậu Thân 1968, ông sau đó đã giảng dạy về các quan hệ quốc tế tại Trường Võ Bị West Point, các giảng khóa cao học về các nguyên nhân của chiến tranh và và các lý thuyết giải quyết xung đột tại các trường American University và George Washington University, và về chính trị quốc tế tại Học Viện Quan Hệ Quốc Tế tại Hà Nội.

Ông đã từng phục vụ tại Cơ Quan Giải Giới và Kiểm Soát Vũ Khi Hoa Kỳ, Tòa Đại Sứ Mỹ tại Tokyo (Phụ Tá Đặc Biệt cho Đại Sứ Mike Mansfield), và Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ. Ông là tác giả của các công trình nghiên cứu “Unfinished Business in Afghanistan: Công Việc Chưa Hoàn Tất Của Mỹ Tại A Phú Hãn,” “Smaller, Faster, Smarter: Retooling the Military to Combat Terrorist Threats: Nhỏ Hơn, Nhanh Hơn, Tinh Khôn Hơn: Chỉnh Đốn Quân Đội Để Chiến Đấu Với Các Đe Dọa Khủng Bố ,” “Strengthening and Embattled Nation: A Strategy for Contenting with the Three Wars in Iraq: Quốc Gia Đang Tăng Cường và Dàn Trận: Một Chiến Lược để Thỏa Mãn Ba Cuộc Chiến Tranh Tại Iraq” , The American Role in Vietnam and East Asia (Vai Trò Của Mỹ tại Việt Nam và Đông Á Châu), cùng các ấn phẩm khác. Quyển sách mới nhất của ông, Shadow of the Dragon(Bóng Của Con Rồng), phân tích mới quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam và các hàm ý của nó cho chính sách của Hoa Kỳ tại Á Châu. (Nguồn: Wikipedia)

Dẫn Nhập

Vào ngày 17 Tháng Hai, 1979, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) đã phóng ra một trận tấn công trên đất liền với quy mô rộng lớn dọc biên giới phía nam của nó vào Việt Nam. Băng qua biên giới tại hai mươi sáu địa điểm khác nhau, các binh sĩ của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) đã tập trung đông đảo để xâm nhập xa hơn các tiền đồn biên giới đã bị chiếm đoạt vào hôm đó. Ý định của Trung Quốc, theo lời của Đặng Tiểu Bình, là “dạy cho Việt Nam một bài học” mà Việt Nam sẽ không mau quên. Việt Nam tức thời lên án hành động này. Bằng ngôn từ không khác với ngôn từ của Franklin Roosevelt trong bài diễn văn của ông đọc tại Quốc Hội [Mỹ] hôm 8 Tháng Mười Hai, 1941, từ báo Quân Đội Nhân Dân Việt Namđã tường thuật vào ngày kế đó: “Ngày 17 Tháng Hai, 1979 sẽ đi vào lịch sử như một bản án nghiêm trọng về các tội ác của “bọn bành trướng Đại Hán” trong việc mưu toan khuất phục và sáp nhập Việt Nam … Chúng ta hãy trừng trị một cách nghiêm khắc quân xâm lược man rợ và cường quyết bảo vệ chủ quyền và nền độc lập quốc gia thiêng liêng của mình!” 1

Việt Nam và Trung Quốc đã giao chiến. Trung Quốc đã từng ủng hộ Hồ Chí Minh trong lúc lưu vong, cung cấp một mô hình cho cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam chống lại người Pháp, trao quân khí chiến tranh trọng yếu cho cuộc chiến thắng năm 1954 tại Điện Biên Phủ, đã phái 50,000 binh sĩ để trợ giúp đánh bại “quân xâm lược Hoa Kỳ”, đã cung cấp các vũ khí cỡ nhỏ có phẩm chất cao cho sự việc phần lớn là một cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí cỡ nhỏ chống lại người Mỹ, và ngăn chặn các cuộc tấn công trên đất liền của Hoa Kỳ vào Bắc Việt Nam, giờ đây đang tấn công vào chính địa điểm đã né tránh được cuộc chiến tranh trên không của Mỹ nhờ sự lo sợ của Hoa Kỳ không muốn khiêu khích Trung Quốc. 2Điều gì đã dẫn dắt đến sự đảo ngược trong các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam? Làm sao hai nước đã từng mô tả mối quan hệ của chúng thì “mật thiết như môi với răng” đi đến chỗ xung đột vũ trang? Tại sao Trung Quốc lại nhất quyết có ý định “dạy cho Việt Nam một bài học”? Đâu là những nguyên nhân gần nhất của cuộc xung đột? Đâu là những nguyên nhân tâm lý trường kỳ hơn của nó? Cuộc chiến tranh đã bộc lộ những gì liên quan đến các quyết định của Bắc Kinh để sử dụng vũ lực? Sự điều hành chiến tranh có cung cấp các cái nhìn quán triệt vào cung cách theo đó Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực trong tương lai hay không? Chương sách này sẽ chú tâm vào các câu hỏi này với một sự nhấn mạnh đến quan điểm của Việt Nam. Dĩ nhiên, có các cái nhìn Việt Nam khác nhau nhưng, như sẽ được trình bày, các quan điểm thắng thế về cuộc chiến thì đồng nhất một cách rõ rệt.

Chương sách này được chia làm năm phần. Trước tiên, nó phân tích các nguyên nhân gần nhất của cuộc xung đột, chiếu rọi cái nhìn của Trung Quốc về vai trò của nó tại Đông Nam Á, cuộc xâm lăng năm 1978 của Việt Nam vào Căm Bốt, sự tái sắp xếp hàng ngũ chiến lược của các quyền lực quan trọng, vị thế của Hoa kiều hải ngoại tại Việt Nam, và các cuộc tranh chấp lãnh thổ song phương. Thứ nhì, nó khảo sát sự điều hành bản thân chiến dịch, bao gồm các sự chuẩn bị quân sự của Trung Quốc cho cuộc tấn công và các quan điểm của Việt Nam về các cuộc hành quân của QĐGPNDTQ. Thứ ba, bài viết thảo luận về kết cuộc của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị lẫn quân sự. Thứ tư, bài viết khám phá các chiều kích tâm lý trong các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam và các hàm ý của chúng cho tương lai. Sau cùng, bài viết tóm tắt các bài học lĩnh hội được như được nhìn thấy bởi phía Việt Nam.

Các sự phán đoán đạt tới khắp bài viết này được rút ra từ sự khảo sát nguồn tài liệu chính yếu, sự nghiên cứu của các học giả hàng đầu, các quan điểm được phát biểu trong các cuộc phỏng vấn gần đây với các viên chức cao cấp tại Hà Nội, cùng các lời bình luận và nhận xét được cung cấp cho tác giả về thời khoảng ba mươi lăm năm dính líu đến Việt Nam. Chương sách giả định có một sự hiểu biết căn bản về bối cảnh của cuộc xung đột, bao gồm các cuộc chiến tranh của Việt Nam chống lại người Pháp từ 1946 đến 1954, người Mỹ từ 1959 đến 1975, và chống phe Khmer Đỏ từ Tháng Mười Hai 1978 đến 1979. 3

Các Nguyên Nhân Gần Nhất Của Cuộc Xung Đột

Cái Nhìn Của Trung Quốc Về Vai Trò Của Nó Tại Đông Nam Á

Theo các viên chức Việt Nam cao cấp, năm 1975 Bắc Kinh đã nhìn một Việt Nam thống nhất và tự tin như một chướng ngại vật trường kỳ tiềm ẩn cho sự hành xử ảnh hưởng của nó tại Đông Nam Á. Vì thế, nó đã muốn kiểm soát các chính sách ngoại giao và quốc phòng của Việt Nam. Bắc Kinh đã lo ngại rằng một Việt Nam thống nhất, hùng mạnh sẽ thách đố các tham vọng của Trung Quốc trong vùng. 4

Đây là một vấn đề đầu tiên và trên hết tại Đông Dương. Bắc Kinh có hay biết về Bản Chúc Thư Cuối Cùng của Hồ Chí Minh, trong đó họ Hồ đã xác định vai trò của Việt Nam như quyền lực tối cao phải thừa kế, trong thực tế, chiếc áo choàng khoác ngoài của Pháp để hành xử bá quyền tại Đông Dương. Nó cũng hay biết về các kế hoạch của Hà Nội cho một Liên Bang Đông Dương, trong đó Căm Bốt và Lào sẽ liên minh với Việt Nam trong các chính sách ngoại giao và quốc phòng, và tương thích về mặt kinh tế và chính trị với Việt Nam. Theo các nguồn tin Việt Nam, bất kỳ sự sắp xếp nào như thế đã thách đố các tham vọng của Trung Quốc muốn sau rốt mang Lào và Căm Bốt nằm trong khu vực ảnh hưởng của nó. Hậu quả, Bắc Kinh đã tiến hành sự tấn công vào Việt Nam một phần để buộc Việt Nam phải từ bỏ bất kỳ ý đồ nào trên việc kiểm soát Đông Dương. 5

Thứ nhì, Trung Quốc đã muốn cảnh cáo các nước Đông Nam Á khác rằng một sự thách đố lại các quyền lợi nền tảng của Trung Quốc sẽ không được dung chấp. Nó sẽ trừng trị một quốc gia, ngay cả [với] một đồng minh to lớn như Liên Bang Sô Viết, đang vượt quá ý muốn chính trị của Trung Quốc. Nó đã muốn cảnh cáo các quốc gia Đông Nam Á đừng gia nhập vào bất kỳ liên minh hay các kế hoạch an ninh nào với siêu cường. Trung Quốc đã lợi dụng cảm tính chống Việt Nam nơi một số thành viên của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations: ASEAN), đặc biệt Thái Lan, để đốt lên các sự lo sợ về sự thông đồng giữa Sô Viết và Việt Nam tại Đông Nam Á. 6

Sau cùng, các viên chức Việt Nam cao cấp vạch ra rằng Trung Quốc muốn sự kính trọng. Bắc Kinh cảm thấy rằng các nước khác tại Đông Nam Á đã xem Trung Quốc quá nhẹ, và muốn nêu lên một điều rằng Trung Quốc, chứ không phải Liên Bang Sô Viết hay Hoa Kỳ, là nước chủ yếu để kế đó cần cứu xét đến, khi đưa ra các quyết định quốc phòng và chính sách ngoại giao quan trọng. 7

Các Nhận Thức Của Việt Nam Về Vai Trò Căm Bốt Đóng Giữ Trong Cuộc Tấn Công Của Trung Quốc

Hà Nội nhìn mối quan hệ với Căm Bốt từ một quan điểm lịch sử. Các chuyên viên Việt Nam về Đông Nam Á vạch ra rằng lịch sử đã dẫn dắt giới lãnh đạo tại Phnom Penh đến việc tin tưởng rằng một Việt Nam thống nhất sau rốt có thể sáp nhập Căm Bốt.

Cuộc nam tiến của Việt Nam đã dẫn tới sự chiếm cứ của nó tại vương quốc Chàm [nam trung phần của Việt Nam ngày nay] trong các thế kỷ thứ mười sáu và mười bảy. Cuộc nam tiến của chúng tôi tiếp tục chạy xuống vùng Châu Thổ sông Mekong và, cùng với áp lực của Thái Lan từ phía tây, sẽ đưa đến sự kết liễu của Căm Bốt nếu không có sự can thiệp của Pháp. Với sự chấm dứt chiến tranh và sự củng cố của Việt Nam, Căm Bốt đã lo sợ trở thành một khu vực ảnh hưởng của Việt Nam.8

Tuy nhiên, theo phía Việt Nam, sự lo sợ này không có căn cứ. “Sau cuộc giải phóng Miền Nam, ưu tiên của chúng tôi là an ninh và phát triển kinh tế. Chúng tôi đã không mấy chú ý đến phe Khmer Đỏ và các hoạt động chống Việt Nam của nó”. 9Đúng hơn, các viên chức Việt Nam vạch ra rằng Việt Nam đã từng trợ giúp Khmer Đỏ giành được thắng lợi, để chỉ khám phá ra rằng khi Pol Pot nắm giữ quyền hành tại Phnom Penh, ông ta đã biểu lộ một thái độ chống Việt Nam một cách mạnh mẽ. Ông ta đã chỉ huy các cuộc tấn công không chỉ nhằm chống lại người Việt sinh sống tại Căm Bốt, mà còn bắt đầu tấn công vào các tiền đồn Việt Nam dọc theo biên giới. Trong Tháng Mười Một 1977, ông ta cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Việt Nam . Sau đó, ông ta chỉ thị Khmer Đỏ leo thang hành động thực hiện các cuộc tấn công trên quy mô rộng lớn sâu hơn vào nội địa Việt Nam, đốt cháy và cướp bóc toàn thể các làng xã. Hà Nội cảm thấy tuyệt đối cần tái lập an ninh dọc biên giới, và sau một loạt các cuộc phản công nhỏ bị thất bại, không chấm dứt được các sự xâm nhập, đã quyết định rằng cách duy nhất để ngăn chặn Pol Pot là phải lật đổ ông ta. 10

Vào ngày 25 Tháng Mười Hai, 1978, các binh sĩ QĐNDVN đã vượt qua biên giới Căm Bốt trong một cuộc tấn công toàn lực. Mười hai ngày sau đó Phnom Penh rơi vào tay QĐNDVN. Hà Nội hiểu rằng cuộc tấn công đã nâng cao một số rủi ro về một sự đáp ứng của Trung Quốc, nhưng họ cũng cảm thấy rằng Bắc Kinh là một phần của vấn đề. Các chuyên viên Việt Nam về Trung Quốc đã vạch ra nhiều phương cách trong đó Trung Quốc đã cổ vũ sự thù hận của Khmer Đỏ chống lại Việt Nam. Trung Quốc đã là nước đầu tiên thừa nhận Pol Pot như là quốc trưởng trong năm 1975. Pol Pot sau đó đã mời Trung Quốc vào Căm Bốt và Trung Quốc đã đáp ứng bằng việc cung cấp cho Phnom Penh các khối lượng lớn lao về vũ khí, quân trang, và sự ủng hộ kinh tế, và bằng vi8ệc gửi các cố vấn sang trợ giúp Khmer Đỏ. Ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa tại Căm Bốt, Bắc Kinh đã không nói gì cả. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Căm Bốt đã chạy trốn sang Việt Nam. 11

BG_10_ban_do-content

Bản Đồ 18 Cuộc Xâm Lăng Của Việt Nam Vào Căm Bốt, 1978-1979

Trong thực tế, Hà Nội đã cảm thấy rằng Trung Quốc đứng đàng sau phần lớn sự xâm lược của phe Khmer Đỏ dọc theo biên giới Căm Bốt của Việt Nam – rằng Bắc Kinh muốn tạo ra một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận: “Chúng tôi nhìn sự trợ giúp của CHNDTQ cho Căm Bốt là để tạo thành một mặt trận thứ nhì. Từ đó chúng tôi cảm thấy chúng tôi cần tấn công tại phía nam [Căm Bốt] để loại bỏ mối đe dọa ở đó, sao cho để không phải đối diện với mối đe dọa hai mặt trận từ Trung Quốc. 12Cuộc chiến tranh là cần thiết từ cái nhìn của chúng tôi, nhưng chúng tôi quan ngại về việc phải để lại binh sĩ tại Căm Bốt – phải bị sa lầy”. 13Do đó: “Vào ngày 7 Tháng Một chúng tôi chiếm cứ Phnom Penh, giáng một trận nặng nề vào tập đoàn Pol Pot. Với lời yêu cầu của nhân dân Căm Bốt, chúng tôi đã ủng hộ phong trào giải phóng Heng Samrin, một mặt trận thống nhất cứu nguy Căm Bốt”. 14

Việt Nam còn tuyên bố thêm đã hành động vì quyền lợi của nhân loại. “Trong năm 1978 chúng tôi đã hay biết về nạn diệt chủng bên trong Căm Bốt. Hoa Kỳ và Trung Quốc bị quy trách bởi họ đã ủng hộ phe Khmer Đỏ. Chúng tôi đã gửi các binh sĩ vào Căm Bốt theo lời yêu cầu của nhân dân Căm Bốt, để đánh đuối phe Khmer Đỏ. Trong tất cả các nước, chỉ mình Việt Nam làm điều đúng”. 15

Theo các viên chức Việt Nam, sự sụp đổ của Phnom Penh trước QĐNDVN tượng trưng cho một sự thất bại trong chính sách của Trung Hoa: “Khi Việt Nam tiến vào Phnom Penh, Trung Quốc đã bị mất mặt. Trung Quốc đã chĩa các sự tố cáo nhắm vào Việt Nam – rằng Việt Nam đã xúi giục các sự xô xát biến giới với Căm Bốt và đã xâm lăng Căm Bốt nhằm giành đoạt bá quyền tại Đông Dương. Vào ngày 17 Tháng Hai, họ đã phóng ra một cuộc tấn công toàn diện vào biên giới phía bắc của chúng tôi. Chúng tôi đã chờ đợi cuộc tấn công.” 16Sự chuyển động của Việt Nam đến gần Liên Bang Sô Viết (LBSV) cũng liên hệ trực tiếp với sự đe dọa của Trung Quốc:

Trung Quốc nhất quán muốn ngăn cản bất kỳ ảnh hưởng nào của Việt Nam tại Căm Bốt. Khi chúng tôi sắp sửa gửi quân sang Căm Bốt, chúng tôi đã phải có các sự đề phòng chống lại sự xâm lược khả hữu của Trung Quốc dọc theo biên giới phía bắc. Chúng tôi đã ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị với LBSV trong năm 1978 như một sự khống chỉ đối với Trung Quốc. Chúng tôi cũng củng cố các sự phòng thủ của chúng tôi tại khu vực biên giới phía bắc. Chúng tôi có dự liệu sự xâm lược của Trung Quốc, nhưng không ở quy mô lớn lao như thế và với lực lượng như thế. Bản hiệp ước đã cung cấp một sự cấm chỉ hạn chế để giữ Trung Quốc khỏi sự xâm nhập sâu vào nội địa.17

Một cựu nhân viên ngoại giao cao cấp tại Hà Nội đã tóm tắt các nguyên do cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam như sau: “Bắc Kinh đã cảm thấy sự khả tín của Trung Quốc bị đe dọa bởi Trung Quốc đã từng ủng hộ phe Khmer Đỏ với viện trợ và các cố vấn trong vài năm. Nó còn tin tưởng rằng QĐNVN sẽ bị kéo căng thật mỏng khi cùng lúc chiếm giữ Căm Bốt và phòng vệ biên giới Trung Quốc – Việt Nam. Ở mức tối thiểu, nó đã muốn cuộc sống củaViệt Nam bị khốn khổ vì sự can thiệp của Việt Nam tại Căm Bốt. 18

Các sự tái sắp xếp chiến lược của các quyền lực quan trọng

Mặc dù các nhà lãnh đạo Việt Nam tin tưởng Căm Bốt là một nguyên nhân trực tiếp và đáng kể cho cuộc tấn công của QĐGPNDTQ, họ cảm thấy lý do sâu xa hơn phải liên quan đến sự tái sắp xếp chiến lược của Trung Quốc, một sự tái liên kết được thúc đẩy bởi một chiến dịch toàn dân cho sự hiện đại hóa. Họ đã phát biểu rằng Trung Quốc nổi lên từ sự xáo trộn của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, nó đã tái thiết lập sự hiện đại hóa như ưu tiên quốc gia hàng đầu, sao cho trong trường kỳ, nó có thể đảm nhận “vị thế chính đáng” của nó tại Á Châu. 19

Phía Việt Nam tin tưởng rằng đối với Trung Quốc, vị thế chính đáng này có nghĩa, trước tiên và trên hết, sự hoàn thành trách vụ đã khởi sự trước khi có Cuộc Cách Mạng Văn Hóa – mở rộng các sự tuyên xác trên các khu vực biên giới mà nó cảm thấy đã bị mất trong các thế kỷ trước.

Trong mười ba nước giáp ranh với Trung Quốc, Việt Nam đã chứng tỏ là kẻ khó khăn nhất. Việt Nam trong lịch sử đã chặn đứng sự bành trướng về phía nam của Trung Quốc. Trung Quốc đã đối phó với các nước khác trước, nay đến lượt Việt Nam.20

Thứ nhì, điều đó có nghĩa là sự xếp hàng của Trung Quốc với Hoa Kỳ chống lại Liên Bang Sô Viết, nước bị đặt tên là bá quyền cấp miền. Trung Quốc đã sử dụng Hoa Kỳ để đối đầu với áp lực khả hữu từ LBSV dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết, và chiến thuật này ăn khớp một cách khéo léo với các nỗ lực của Hoa Kỳ muốn chơi lá bài Trung Quốc. Các sự biến đổi then chốt đã xảy ra trong năm 1975, khi Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford đến thăm viếng Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thừa nhận một ghế đại diện của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và gỡ bỏ sự cấm vấn mậu dịch của Hoa Kỳ. Sau đó trong Tháng Mười 1975, Bộ Trưởng Ngoại Giao Henry Kissinger đã yêu câu Trung Quốc ủng hộ Hoa Kỳ chống lại Việt Nam, ghi nhận rằng Trung Quốc bị bao vây ở mọi phía – bởi Liên Bang Sô Viết, Ấn Độ, và Việt Nam. 21

Thứ ba, và quan trọng nhất trong cái nhìn của Việt Nam, Trung Quốc đã tìm kiếm các quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ ngõ hầu tiếp thu được tư bản và kỹ thuật có tính cách sinh tử cho sự hiện đại hóa của nó. Các triển vọng nâng cao về sự chuyển giao kỹ thuật đã là một lý do chính yếu cho cuộc viếng thăm của Đặng Tiểu Bình tại Hoa Kỳ trong Tháng Một 1979. 22

Cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Kỳ cũng hệ trọng vì một lý do khác. Trong cuộc thăm viếng, họ Đặng có nói với Tổng Thống Jimmy Carter rằng Trung Quốc sẽ phải “dạy cho Việt Nam một bài học, và rằng ông ta sẽ tấn công Việt Nam”. 23Các viên chức quân sự Việt Nam cao cấp đã giải thích cuộc thăm viếng như sau, giải thích nó như đèn xanh của Hoa Kỳ cho Trung Quốc tấn công:

Họ Đặng đã muốn “dạy cho Việt Nam một bài học” như thế để các nước khác tại Á Châu có thể chứng kiến sự bại trận của Việt Nam trước quyền lực Trung Quốc. Tổng Thống Carter thoạt đầu bị ngạc nhiên nhưng sau đó đã đồng ý. {Cố Vấn An Ninh Quốc Gia} Zbigniew Brzezinski có nói với Tổng Thống Carter rằng LBSV sẽ không có hành động chống lại Trung Quốc bởi nó không có quyền lợi sinh tử bị đe dọa. Ông ta đã đúng, và chúng tôi đã không kỳ vọng sự trợ giúp quân sự của Sô Viết. Trong thực tế, LBSV đã bắt đầu giảm bớt viện trợ quân sự sau Hội Nghị Paris năm 1973. Hơn nữa, đã có một sự thỏa thuận ngầm giữa Hoa Kỳ và LBSV rằng nước kể sau [LBSV] sẽ không ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) về mặt quân sự. Hoa Kỳ và LBSV đã theo dõi và không làm gì cả. Bài học cho Việt Nam là tự lực. Điều này có nghĩa là chiến tranh nhân dân và chúng tôi đã đúng khi vũ trang cho các công dân chúng tôi tại các tỉnh giáp ranh Trung Quốc. 24

Phía Việt Nam tin tưởng nợi sự tự lực được tăng cường bởi sự giải thích của họ về các biến cố bao quanh sự chiếm đoạt của Trung Quốc ở Quần Đảo Hoàng Sa (Paracels hay Xisha trong tiếng hán) năm 1974. Mặc dù QĐGPNDTQ đã chiếm đoạt chúng từ các binh sĩ Nam Việt Nam, Hải Quân Hoa Kỳ (mà phía Việt Nam nói có hiện diện tại Vịnh Bắc Phần vào lúc đó) đã không phản ứng. Trung Quốc ngầm hiểu rằng sẽ không có phản ứng bởi vì nó biết rằng Hoa Kỳ muốn có sự sáp lại gần hơn với Trung Quốc. Trắc nghiệm thành công phản ứng của Hoa Kỳ trong vụ Quần Đảo Hoàng Sa, phía Trung Quốc cảm thấy nó có thể hành động mà không khiêu khích một phản ứng của Hoa Kỳ trong việc tấn công Việt Nam trên đất liền. 25

Tuy nhiên, lập trường tự lực của Việt Nam bị tiết chế bởi khoản viện trợ đáng kể mà nó đã nhận được trong các năm chiến tranh từ cả Liên Bang Sô Viết lẫn Trung Quốc. Theo các chuyên viên Việt Nam, các đòi hỏi của Hoa Kỳ trong năm 1971 và 1972 rằng Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa phải cắt giảm viện trợ của họ cho Việt Nam đã đưa đến một sự cắt giảm viện trợ từ 60% đến 70%. Phản ứng của Trung Quốc là để cho Việt Nam dựa vào viện trợ của Sô Viết. Cách nào đi nữa, khoản viện trợ sẽ quá nhỏ bé, và Việt Nam sẽ phải quay trở lại với Trung Quốc. Trung Quốc đã cắt bỏ hoàn toàn viện trợ kinh tế trong năm 1978 và rút về các kỹ thuật gia và các chuyên viên của nó. Viện trợ của Sô Viết vẫn tiếp tục, dù ở các mức độ thấp hơn. 26

Bắc Kinh tiếp tục thái độ thù nghịch của mình. Trong Tháng Sáu 1978, Bắc Kinh thông báo cho Hà Nội rằng nó cho đóng cửa các tòa lãnh sự của Việt Nam tại Quảng Châu, Nam Ninh và Côn Minh, và trong Tháng Mười Một 1978, nó đã cắt đứt các tuyến đường xe hỏa giữa Trung Quốc và Việt Nam. 27Việt Nam hay biết một cuộc tấn công nhiều phần xảy ra dọc biên giới phía bắc và, như được đề cập trước đây, đã ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với Liên Bang Sô Viết trong một mưu toan nhằm ngăn chặn hay giới hạn khuôn khổ của bất kỳ cuộc tấn công nào của Trung Quốc. Bắc Kinh kế đó đã xem bản hiệp ước như một hành vi thù nghịch bởi Việt Nam, và sự ngờ vực của Bắc Kinh về Liên Bang Sô Viết đã dẫn dắt nó đến việc tin tưởng liên minh mới là một phần của một mưu toan của Sô Viết nhằm bao vây Trung Quốc. Nhìn Việt Nam như một mặt trận trong cuộc đấu tranh chống Sô Viết của mình, Bắc Kinh đã gán nhãn hiệu cho Việt Nam là tiểu bá quyền và LBSV là đại bá quyền. Đó là lý dó trung tâm cho Trung Quốc muốn dạy Việt Nam một bài học để các nước khác nhìn thấy. 28Lo lắng về an ninh quá đáng, phía Trung Quốc đã nhìn liên minh Sô Viết – Việt Nam như một trở ngại cho sự tái khẳng định vị trí thích hợp của Trung Quốc tại Á Châu. Cuộc tấn công đã được thiết kế để phá vỡ liên minh này và cảnh cáo Hà Nội rằng trong trường kỳ, nó sẽ cưỡng bách Việt Nam từ bỏ bất kỳ liên minh với đại cường nào. 29

Tuy nhiên, Việt Nam đã không cho phép LBSV sử dụng Việt Nam như một căn cứ chống lại Trung Quốc. Mối quan hệ vẫn còn chặt chẽ nhưng chưa đến mức mà Việt Nam nghĩ rằng nó có thể phải lệ thuộc vào sự can thiệp quân sự của Sô Viết, ngay dù LBSV có hay biết trước rằng CHNDTQ có ý định tấn công Việt Nam. “Việt Nam đã ký thác mình vào sự tin tưởng nơi chủ nghĩa quốc tế vô sản và nghĩ rằng tình liên đới của nó sẽ củng cố liên minh với LBSV, nhưng vào năm 1979, điều rõ ràng rằng nguyên tác này không còn có nhiều ý nghĩa với bất kỳ nước nào”. 30

Người Hoa như một nguyên nhân của cuộc xung đột

Các nhà nghiên cứu và các viên chức Việt Nam không nhìn vấn đề người gốc Trung Quốc tại Việt Nam (người Hoa) là một lý do quan trọng cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam. Họ nói phần lớn người Hoa, đặc biệt các người thuộc cộng đồng Trung Quốc to lớn ở Chợ Lớn (tại Sàigòn), đã cư trú tại Việt Nam qua nhiều thế hệ. Lý do người Hoa được trưng dẫn như là nguyên nhân của cuộc xung đột, theo lời họ, là bởi vì cuộc chiến tranh không được lòng dân ngay tại chính Trung Quốc, và Bắc Kinh cần khuấy động sự tức giận của quần chúng nơi sự ngược đãi giả định các công dân Trung Quốc tại Việt Nam. Theo luồng tư tưởng này, phần lớn người dân Trung Quốc cảm thấy Việt Nam là thân hữu của họ và đã không hiểu tại sao Trung Quốc sẽ tấn công. Trong thực tế, Bắc Kinh đã sử dụng vấn đề Hoa kiều hải ngoại như một duyên cớ để biện minh sự xâm lược của Trung Quốc đối với nhân dân của chính họ. 31

Một thành tố quan trọng của quan điểm này là hàm ý rằng sự bất mãn phổ biến tại Trung Quốc có thể thực hiện một ảnh hưởng kiềm chế trên tác phong của Trung Quốc, rất giống như sự bất mãn của quần chúng tại Mỹ đã làm trong việc chấm dứt sự can dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Truyền thông Việt Nam vào thời điểm đó đã truyền đi nhiều lần các sự đề cập tới các cuộc biểu tình của người dân Trung Quốc chống đối chiến tranh. Điển hình của sự tường thuật lúc đó như sau: “Các nhà cầm quyền Trung Quốc đã ngăn cấm mọi cuộc biểu tình, tập họp công cộng và sự ấn hành các bản tin tường thuật của nhân dân liên quan đến cuộc xâm lược của Trung Quốc tại Việt Nam”. 32

Các sự giải thích cho cuộc di cư của người Hoa khỏi Bắc Việt về Trung Quốc chú tâm đến các sự khiêu khích của Trung Quốc: “Phía Trung Quốc, thi hành một ý đồ có tổ chức và xảo trá, đã dụ dỗ và cưỡng bách hàng trăm nghìn người Hoa đi về Trung Quốc trong một mưu toan gây ra sự xáo trộn chính trị, xã hội, và kinh tế tại Việt Nam”. 33Bên trên các sự khiêu khích này, Trung Quốc đã tố cáo Việt Nam đã ngược đãi các người Hoa. 34

Hà Nội có thể chính xác trong sự phán đoán rằng động thái của nó đối với người Hoa không phải là một yếu tố quyết định trong quyết định của Trung Quốc để tấn công. Tuy nhiên, không có gì phải ngờ rằng nó đã là một yếu tố lớn hơn các lời giải thích đã được đưa ra. Trước tiên, sự đàn áp các phần tử tư sản mại bản tại miền Nam Việt Nam trước đây vốn tập trung đông đảo tại cộng đồng người Trung Hoa to lớn trong Chợ Lớn. Ở nơi đó, trong Tháng Ba 1978, các nhà cầm quyền Việt Nam đã tung ra một sự kiểm tra đột ngột ồ ạt trên hoạt động kinh doanh, tước đoạt của cải của các cư dân và buộc nhiều người trong họ phải lưu vong. 35Thứ nhì, rõ ràng đã có các mưu toan của Việt Nam để xua đuổi nhiều người Hoa tại Bắc Việt về Trung Quốc. Động lực của việc này thì không rõ rệt, nhưng có thể bị thúc đẩy bởi các sự lo ngại về an ninh do cảm tính chống Việt Nam trong số các người này.

Về phần mình, Bắc Kinh, đặc biệt với các tham vọng của nó về một vai trò có ảnh hưởng tại Đông Nam Á, đã không thể đứng yên và ngắm nhìn hàng trăm nghìn người gốc Trung Hoa bị xua đuổi ra khỏi Việt Nam. Vì thế, nó đã ồn ào kết án các hành vi của Việt Nam và đã gửi ít con tàu đến Vịnh Bắc Việt trong một nỗ lực vô ích để cứu vớt những người Hoa muốn hồi hương về Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam đã không cho phép các chiệc tàu này tiến vào các hải phận của nó, và Bắc Kinh đã rút chúng về trước khi có cuộc tấn công qua biên giới của nó. 36

Các sự tranh chấp biên giới đất liền

Bắc Kinh đã muốn giải quyết các vấn đề biên giới có lợi cho nó. Sự phân định các biên giới trên đất liền là một việc khó khăn, nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ khi so sánh với các tham vọng của Trung Quốc tại Biển Nam Hải, bao gồm cả các sự tuyên xác tại Vịnh Bắc Bộ và tại Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam không nhận thức các vụ tranh chấp tại biên giới đất liền như một yếu tố quan trọng trong quyết định của Trung Quốc. Dọc theo toàn thể biên giới dài 797 dậm Anh, Trung Quốc tuyên xác ít hơn sáu mươi cây số vuông. 37Việt Nam ghi nhận rằng khu vực biên giới đã được hưởng một thời kỳ hòa bình lâu dài, và các nhóm dân tộc ở hai bên biên giới đã có một mối quan hệ chặt chẽ. Biên giới, theo lời họ, đã không phải là một vấn đề quan trọng trước khi có các sự tranh chấp trong thập niên 1970:

Về mặt lịch sử, biên giới luôn luôn vô định hình. Việt Nam đã là một quốc gia triều cống nhưng độc lập trong nhiều năm, trong một tình trạng tương tự như mối quan hệ giữa Phần Lan và Nga – nó đã là một khu vực an ninh và ảnh hưởng của Trung Quốc. Với sự trổi dậy của CHNDTQ, Trung Quốc đã tìm cách xác quyết chủ quyền của Đại Hán trên các vùng như thế, kể cả Bắc Hàn, nơi mà Trung Quốc đã bảo vệ bằng việc tiến đến chiến tranh với Hoa Kỳ. Nhưng ít nhất VNDCCH vẫn còn chưa phải là một vùng như thế. Điều này có lợi cho chúng tôi trong suốt cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ.38

Sau đó, làm sao mà cuộc xung đột biên giới đã phát sinh? Rõ ràng, đã có các sự giải thích khác nhau về thỏa hiệp phân định biên giới Pháp – Hoa năm 1887. Trong sự thi hành thỏa hiệp đó, “333 cột mốc biên giới đã được đặt vào lúc chuyển đổi thế kỷ, nhưng chúng đã không được bảo trì kỹ lưỡng. Một số cột mốc trên đất liền đã bị di dời xuống phía nam, nhưng Việt Nam thì quá bận tâm với các cuộc chiến tranh của nó để chú ý đến việc đó. Trong suốt hai cuộc chiến tranh Đông Dương, CHNDTQ đã nói với VNDCCH rằng biên giới trên đất liền không phải là một vấn đề và có thể được giải quyết sau này. Cùng giọng điệu như thế đối với Vịnh Bắc Bộ”. 39

Các sự khác biệt trong các sự giải thích đã có ý nghĩa lớn hơn trong thập niên 1970. Theo cái nhìn của Việt Nam, “bởi các quyền lợi chiến lược của nó đã biến đổi trong thập niên 1970 và 1980, Trung Quốc đã đưa ra các đòi hỏi mới trên đất liền và trên biển. Bắc Kinh đã nói nó đã phải ‘ổn định hóa biên giới để làm cho lãnh thổ Trung Quốc an toàn hầu phát triển’. Trung Quốc đã cáo buộc Việt Nam đang tấn công Trung Quốc, nhưng Việt Nam chưa hề có thể tấn công và chiếm cứ Trung Quốc”. 40Các nguồn tài liệu khác công nhận rằng Hà Nội đã trở nên khiêu khích quá đáng tiếp theo sau sự chiến thắng của nó trên Sàigòn. Việt Nam đã đưa ra các sự tuyên xác vượt quá biên giới được phân định trong thỏa hiệp Trung Quốc – Pháp Quốc, và đã bắt đầu nêu lên vấn đề một đường biên giới “lịch sử” để hậu thuẫn cho các sự tuyên xác đối với mười lăm khoảnh đất riêng biệt tại các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. “Chúng tôi phạm phải các sai lầm trong thái độ của chúng tôi đối với Trung Quốc”, một viên chức Bộ Ngoại Giao Việt Nam thú nhận như thế. 41Các sai lầm này rõ ràng khiến Trung Quốc tức giận, đổ thêm dầu vào các nguyên nhân khác của cuộc xung đột năm 1979.

Các tranh chấp tại biển Nam Hải

Các sự tranh chấp Biển Nam Hải (South China Sea) giữa Trung Quốc và Việt Nam đã hiện hữu ít nhất từ năm 1947, khi Trung Hoa [Dân Quốc] vạch đường gồm chín đoạn rời để bao gồm các sự tuyên xác trên các hòn đảo chiếm đại đa số diện tích của biển này. “Về mặt lịch sử, Hoàng Sa (Paracels: Xishas) và Trường Sa (Spratlys: Namshas) là của Việt Nam. Chúng được gọi là Trường Sa [sic, trong nguyên bản viết sai là Trường Xa, chú của người dịch]. Tưởng Giới Thạch tuyên xác nhưng không có hành động gì”. 42Như với biên giới đất liền trong suốt hai cuộc chiến tranh Đông Dương, các tranh chấp trên biển đã được triển hoãn cho sự giải quyết tương lai. Tuy nhiên, trong năm 1974, với sự chiếm đoạt của QĐGPNDTQ các đảo nhỏ nằm phía tây của Quần Đảo Hoàng Sa từ Nam Việt Nam, Hà Nội trở nên bối rối. Nó đã không ủng hộ bước tiến của Trung Quốc đánh Nam Việt Nam cũng không kết án sự chiếm đóng kế đó của Nam Việt Nam trên sáu đảo tại Quần Đảo Trường Sa mà Trung Quốc đã tuyên xác. Trong thời hậu chiến, khi các sự căng thẳng lên cao với Trung Quốc, nó bắt đầu nhìn Trung Quốc như một mối đe dọa còn lớn hơn nữa đối với các tuyên xác trên biển của nó. Bởi vì Trung Quốc rõ ràng đã hướng ra ngoài trong khi nó phát triển tiềm năng quân sự và kinh tế của nó, Hà Nội trong một bước tiến phủ đầu một cách quả quyết đã khởi sự đồn trú trên nhiều hòn đảo khác nhau của Quần Đảo Trường Sa. 43

Mặc dù cả hai bên đều tuyên xác cả Quần Đảo Hoàng Sa lẫn Trường Sa, không bên nào có các lực lượng hải quân có khả năng phóng chiếu nhiều quyền lực trong vùng. Hải quân QĐGPNDTQ có một hạm đội các tàu cũ có thể vuơn tới Quần Đảo Trường Sa, nhưng Việt Nam vẫn còn đang dựa vào hạm đội Sô Viết có năng lực hơn nhiều làm kẻ bảo kê an ninh cho chuỗi mở rộng từ từ các hòn đảo được củng cố. Như một phần trong các sự chuẩn bị của nó cho việc tấn công Việt Nam, Trung Quôc đã tập họp một hạm đội nhỏ ngoài khơi đảo Hải Nam hồi đầu năm 1979. Hạm đội đã không bao giờ được sử dụng, bởi Trung Quốc đã quyết định hạn định sự tấn công của nó đánh Việt Nam vào sự chiến đấu trên đất liền, mà nhiều phần cũng vì bốn chiếc tàu chiến của Sô Viết đã di chuyển vào Biển Nam Hải hồi đầu Tháng Hai. Bốn chiếc tàu chiến này sau rốt đã thả neo tại Vịnh Cam Ranh, nhưmg sự hiện diện của chúng trong vùng đã là một sự cảnh cáo rõ ràng cho Bắc Kinh không được đẩy cuộc tấn công của mình vượt quá một sô lằn ranh nào đó. 44

BG_11_ban_do_2-content

Bản Đồ 19: Biển Nam Hải

Sự kiện rằng các cuộc tranh chấp Biển Nam Hải rõ ràng đã không đóng giữ một vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt đến cuộc xung đột năm 1979 không có nghĩa là chúng không thể dẫn đến một cuộc tranh chấp giữa hai nước trong tương lai. Theo các nguồn tin Việt Nam, Trung Quốc đã muốn mở rộng các biên giới trên biển của nó và có thể tạo ra một duyên cớ để chiếm đoạt các hòn đảo do Việt Nam nắm giữ, “giống y như nó đã làm trong việc tấn công khắp tuyến McMahon trong năm 1962, và Đảo Damamsky trong năm 1969”. 45 Một người có thẩm quyền Việt Nam về vấn đề này đã phát biểu điều đó theo cách sau đây:

Những gì xảy ra tại Biển Nam Hải là một chức năng của các quyền lợi chiến lược. Trung Quốc tuyên bố nó cần “không gian cho sự phát triển” và cần kiểm soát các biên giới chiến lược của nó trên biển. Chúng tôi muốn ổn định hóa tình hình, chính yêu bằng các phương thức đa phương, nhưng cũng gồm cả song phương, xuyên qua các sự thương thảo và có lợi hỗ tương.46

Sự tiến hành chiến dịch

Trong việc hoạch định sự xâm lăng của nó vào Căm Bốt, Hà Nội có ngờ vực Trung Quốc có thể đáp ứng bằng hành động quân sự dọc theo biên giới Trung – Việt. Có các dấu hiệu quân sự ở đó.

Trước tiên, các sự xâm nhập của QĐGPNDTQ theo tường thuật, vào Việt Nam đã gia tăng một cách rõ rệt. Theo Hà Nội, con số các biến cố dẫn đến cuộc tấn công Tháng Hai 1979 đã gia tăng từ nhịp độ trung bình trong năm 1978 là 49 vụ mỗi tháng lên 171 vụ trong Tháng Một 1979, và 230 vụ trong 16 ngày trước khi có cuộc tấn công hôm 17 Tháng Hai. 47Vào ngày 1 Tháng Hai, Hà Nội đã tường thuật rằng sự gia tăng rõ rệt trong các vụ đụng độ biến giới đã buộc Việt Nam “phải duy trì một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực”. 48

Khi chúng tôi nhìn thấy Phnom Penh sắp sửa sụp đổ, chúng tôi có dự liệu cuộc tấn công của QĐGPNDTQ. Chúng tôi có biết CHNDTQ không thể trì hoãn cuộc tấn công khi phe Khmer Đỏ sắp sửa bị đánh bại. Chúng tôi đã thực hiện các sự chuẩn bị, trang bị và huấn luyện dân quân (citizen soldiers), và đã báo động các lực lượng địa phương quân. Vào tối trước khi có cuộc tấn công, tôi có mặt cách biên giới ba cây số. Học Viện Quốc Phòng của QĐNDVN đã phái tất cả nhân viên lên phía bắc làm cán bộ và để lượng giá tình hình. Các địa phương quân sắp phải chịu lãnh áp lực chính của cuộc tấn công. Họ có ba nhiệm vụ: đánh trả và gây tổn thất của QĐGPNDTQ ở mức tối đa, làm chậm bước tiến quân, và hướng dẫn các đường tiến quân của các lục lượng chủ lực.49

Thứ nhì, Hà Nội có tường thuật các sự chuẩn bị sâu rộng của QĐGPNDTQ cho các cuộc tấn công to lớn về mặt quy mô và phạm vi hơn chỉ là [để sử dụng cho] các vụ đụng độ nhỏ biên giới. Nó có ghi nhận các vụ xâm nhập sâu vào các tỉnh Hoàng Liên Sơn và Lạng Sơn, các vụ đột kích vào các đồn biên giới của Việt Nam, và sự tập hợp đông đảo trọng pháo phía bên biên giới Trung Quốc. 50Theo các nguồn tin Việt Nam, QĐGPNDTQ đã xúi giục các vụ đụng độ khắp toàn thể các tỉnh biên giới của Việt Nam hầu phân tán công tác quốc phòng. Trong số 171 vụ xâm nhập được báo cáo trong Tháng Một 1979, thí dụ, 24 vụ tại Quảng Ninh, 40 vụ tại Lạng Sơn, 43 vụ tại Cao Bằng, 18 vụ tại Hà Tuyên, 39 vụ tại Hoàng Liên Sơn, và 7 vụ tại tỉnh Lai Châu. 51

Thứ ba, mặc dù có tường thuật các vụ biến cố sâu rộng suốt Tháng Một và đầu Tháng Hai, nó đã chú tâm đến sự tiến quân vào huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn một cách chi tiết khác thường, bởi Cao Lộc dẫn đường tới thị trấn Lạng Sơn, và cả hai địa điểm nằm trên con đường trực tiếp nhất từ biên giới Trung Quốc xuống Hà Nội. Vào ngày 4 Tháng Hai, có báo cáo rằng khoảng 200 binh sĩ QĐGPNDTQ, được yểm trợ bởi pháo binh và súng máy và được hỗ trợ bởi “hàng nghìn” binh sĩ QĐGPNDTQ, đã tiến sâu 200 mét vào Việt Nam tại huyện Cao Lộc. Các binh sĩ QĐGPNDTQ được cho hay đã chiếm cứ các địa điểm có địa hình then chốt và khai quang các tầm khai hỏa trong các sự chuẩn bị hiển nhiên đối với một sự phản công khả hữu của Việt Nam. 52

Một tuần sau đó, Hà Nội phát thanh các tin tức đáng ngại hơn: “Vào sớm hôm 10 Tháng Hai, sau khi đã bắn súng cối và súng máy hạng nặng vào các thôn xã của nhân dân chúng ta, phía Trung Quốc đã phái các binh sĩ sang xâm lấn và chiếm cứ một khu vực tại xã Thanh Loa [?] được phòng vệ bởi các dân quân chúng ta … Các kẻ xâm nhập Trung Quốc đã chiếm cứ Đồi 400, 14 cây số bắc-đông bắc tỉnh lỵ Lạng Sơn và hai cây số bên trong lãnh thổ Việt Nam”. 53Giống như trong cuộc tấn công trước đây gần biên giới hơn, QĐGPNDTQ đã hậu thuẫn các hành động của nó bằng việc bố trí các lực lượng mạnh để yểm trợ. “Phía Trung Quốc đã tạo ra một tình trạng nghiêm trọng dọc theo biên giới Trung – Việt. Nó đã tập hợp 20 sư đoàn, hàng trăm các phi cơ chiến đấu, nhiều xe thiết giáp và các quân dụng chiến tranh khác sát gần biên giới Việt Nam”. 54

Đã có 600,000 binh sĩ Trung Quốc nói chung liên can đến cuộc tấn công. Ý định của QĐGPNDTQ là tiến sâu từ bốn mươi đến sáu mươi cây số trong lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi đã phải chuẩn bị. Chúng tôi không thể tin được phạm vi của cuộc tấn công. Ngay tại Hà Nội, dân chúng được nói cần sẵn sàng. Họ đã được báo động; hồ đào hố, và họ đã chuẩn bị các vị trí phòng thủ. 55

Tuy nhiên, phía người dân Việt Nam tại Hà Nội tuyên bố vẫn giữ vẻ tự tin. Bất kỳ sự quan ngại nào về sự an toàn của thủ đô đều được dấu kín, cả trên báo chí vào lúc đó lẫn trong các sự thẩm định đương thời của Việt Nam về cuộc chiến. “Chúng tôi có ưu thế trang thiết bị của Nga và Mỹ so với trang thiết bị của QĐGPNDTQ “, một chuyên viên nhấn mạnh, trong khi các người khác tuyên bố:

Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã hạ thp sự sẵn sàng chiến đấu của QĐGPNDTQ. Các binh sĩ QĐGPNDTQ đã phá hủy kinh tế của các khu vực bị chiếm đóng, nhưng đã phải trả giá với các sự tổn thất lớn lao. Năng lực chiến dấu của QĐGPNDTQ thì thấp. QĐGPNDTQ cũng có tinh thần thấp. 56

Bất kể sự nhận biết rõ ràng của nó về các dấu hiệu cảnh cáo, Hà Nội vẫn rõ ràng ở vào chỗ tin tưởng rằng một nước xã hội chủ nghĩa anh em sẽ không bao giờ tấn công nó. Sự tin tưởng này được tăng cường bởi một nhận thức rằng phần lớn người Trung Quốc chống đối chiến tranh và rằng sẽ có áp lực từ dân chúng Trung Quốc để ngăn chặn chiến tranh. 57Tuy nhiên, có lẽ điều quan trọng nhất đối với Hà Nội là lời bình luận bởi Đặng Tiểu Bình một tuần sau khi mở chiến dịch là cuộc tiến quân của Trung Quốc sẽ không được kéo dài lâu hơn cuộc giao tranh năm 1962 với Ấn Độ (ba mươi ba ngày). 58Cộng với các ý kiến trước đó của ông ta rằng cuộc xâm lăng sẽ “được hạn chế về không và thời gian”. Hà Nội rất có thể đã kết luận rằng nó có thể cầm chân phía Trung Quốc tại các các tỉnh biên giới trong bất kỳ trường hợp nào.

Một vài khuôn mẫu hành động phát sinh từ các cuộc xâm nhập “tiền chiến tranh” này. Trước tiên, QĐGPNDTQ tạo ra các biến cố suốt một mặt trận rộng lớn, nhất thiết làm phân tán các sự phòng thủ của Việt Nam và che dấu đến một tầm mức giới hạn trục tấn công chính yếu. Thứ nhì, QĐGPNDTQ đã tập trung các nỗ lực của nó vào việc chiếm đoạt các địa hình trọng yếu dọc theo khu vực phòng thủ trọng yếu nhất của Việt Nam, — hành lang Lạng Sơn dẫn xuống Hà Nội. Thứ ba, trong cả cuộc tấn công biên giới hôm 4 Tháng Hai lẫn cuộc tấn công hôm 10 Tháng Hai vào Đồi 400, QĐGPNDTQ đã hành động một cách mau lẹ để chiếm đoạt các mục tiêu trước khi các lực lượng Việt Nam có thể đáp ứng. Nó đã tức thời dựng lên các vị trí phòng thủ theo sau sự chiếm đoạt các mục tiêu của nó, và đã hậu thuẫn sự hiện diện của nó bởi lực lượng áp đảo hỗ trợ cho cuộc tấn công. Hoạt động của QĐGPNDTQ chính vì thế đã mưu toan áp đặt “sự đã rồi: a fait accompli”.

BG_12_ban_do_20-content

Bản Đồ 20: Cuộc Xâm Lăng Của Trung Quốc Vào Việt Nam, năm 1979

Sự mở màn các chiến sự hôm 17 Tháng Hai đã diễn ra không có sự bất ngờ. Ngoài nhiều biến cố trong sự chuẩn bị cho cuộc tấn công của QĐGPNDTQ, các sự chuẩn bị quân sự thì ồ ạt. Mười trong mười một quân khu của Trung Quốc đã đóng góp các lực lượng. Các lực lượng này gồm khoảng 20 sư đoàn, 300,000 binh sĩ, 700-1000 máy bay, 1,000 xe tăng, và 1,500 khẩu pháo. 59Các đơn vị xâm nhập Việt Nam một cách điển hình được trang súng bắn hỏa tiễn phóng lựu đạn, các súng máy, và súng 12.7 ly. Trong các tuần lễ trước khi có cuộc tấn công, Hà Nội có tuyên bố rằng các máy bay Trung Quốc đã bay qua không phận của Việt Nam, trong khi “các tàu và thuyền Trung Quốc đã thực hiện hơn 1,500 vụ đột nhập vào hải phận của Việt Nam”. 60

Cuộc tấn công thực sự đã bắt đầu vượt qua toàn thể vùng biên giới trong một cuộc công kích vào lúc rạng sáng bởi sáu sư đoàn bộ binh được yểm trợ bởi các loạt trọng pháo. QĐGPNDTQ đã tiến vào Việt Nam tại hơn hai mười sáu địa điểm, nhưng đã sớm tập trung cuộc tấn công của họ dọc theo năm ngả tiến quân chính, tất cả đều nhắm vào tỉnh lỵ của năm trong sáu tỉnh biên giới của Việt Nam (ngoại trừ tỉnh duyên hải Quảng Ninh và tỉnh lỵ của nó là Hòn Gai). Các mục tiêu quân sự Trung Quốc bao gồm không chỉ việc chiếm đoạt các tỉnh này, mà còn cả sự triệt hủy các đơn vị quan trọng của QĐNDVN được xem là cốt yếu cho sự phòng thủ của họ. Bắc Kinh đã đặt tên cho các sự chuyển động của nó là một cuộc “hoàn kích tự vệ”, và đã cẩn thận không bày tỏ bất kỳ ý định nào muốn tiến quân vượt quá các tỉnh biên giới tiến xuống vùng Châu Thổ sông Hồng. QĐGPNDTQ cũng giới hạn cuộc tấn công của nó bằng cách không sử dụng không hay hải lực. 61Ở cực điểm, các lực lượng QĐGPNDTQ bên trong Việt Nam được ước lượng là tám sư đoàn và hơn 100,000 quân. 62

Việt Nam đã dựa chính yếu vào dân quân, bao gồm các binh sĩ-công dân và các lực lượng địa phương, để đối đầu với cuộc xâm lăng. Theo các sĩ quan cao cấp của QĐNDVN, Hà Nội đã cung cấp các vũ khí nhỏ và huấn luyện cho các công dân của vùng biên giới trong vài tháng trước cuộc tấn công. Một khi cuộc tấn công bắt đầu, các binh sĩ-công dân này và các lực lượng địa phương quân đã phải chịu đựng áp lực chính của cuộc tấn công. Năm sư đoàn chính quy của QĐNDVN được giữ làm quân trừ bị, sẽ chỉ giao chiến nếu QĐGPNDTQ đe dọa chọc thủng xuống vùng Châu Thổ sông Hồng. Hà Nội đã muốn phá hỏng một mục tiêu của QĐGPNDTQ nhằm tiêu diệt các đơn vị lực lượng chủ lực, nhưng cũng cảm thấy rằng nó sẽ vững mạnh hơn về mặt chiến thuật để chỉ tung ra các đơn vị quân chủ lực sau khi các tuyến đường lưu thông của các đơn vị Trung Quốc bị căng mỏng ra. Hà Nội cũng đã giữ các đơn vị chủ lực quân đàng sau ngay từ lúc khởi đầu trong một nỗ lực nhằm giữ bất kỳ chiến sự nào phải được giới hạn ở khu vực biên giới. Trong thực tế, một ít đơn vị QĐNDVN đã tham gia vào sự phòng thủ Lạng Sơn hồi đầu Tháng Ba, nhưng ngay ở đó các dân quân đã thực hiện việc giao tranh chính yếu. Một số ước lượng từ 75,000 đến 100,000 dân quân Việt Nam đã tham gia vào sự giao tranh. 63

Các chiến thuật của QĐGPNDTQ đã không phải là một điểm mạnh của Trung Quốc. Quân đội đã bị tàn phá bởi các sự rối loạn của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, đã không tham gia vào sự chiến đấu trong mười năm, và vẫn chưa hiện đại hóa các lực lượng của nó để chiến đấu “một cuộc chiến tranh kỹ thuật cao độ dưới các điều kiện địa phương”. Các xe tăng và xe vận tải bị giữ chân tại một ít con đường uốn khúc giữa các ngọn núi, đồi cao, phần lớn được che phủ bởi rừng và rải rác các bờ đá vôi dốc đứng. Địa thế hành lang Lạng Sơn không hoàn toàn gập ghềnh, nhưng bao gồm nhiều ngọn đồi dốc đứng với các khu vực khai hỏa thuận lợi bảo vệ các tuyền đường tiến tới. 64Khi bộ binh QĐGPNDTQ mưu toan né tránh tuyến đường, họ có khuynh hướng đổ dồn theo đội hình hàng dọc bởi địa hình. Ở đó, họ đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ bởi các lực lượng địa phương quân lưu động am tường rất rõ địa hình và thực hiện các cuộc phục kích thường xuyên với hiệu quả đích đáng. Dọc theo các lối đi và đường lộ chính, phía Việt Nam đã sử dụng nhiều mìn nổ, cuộc tấn công bằng súng cối, và các cuộc phục kích khai hỏa trực tiếp từ các địa thế khống chế. Chỉ sau khi gánh chịu các tổn thất nặng nề cho các đội hình mở đường của nó, các đơn vị QĐGPNDTQ mới có thể dựng lên một căn cứ hỏa lực đủ để di chuyển các lực lượng chống lại quân phòng vệ Việt Nam cố thủ tại các chiến hào. 65

Chúng tôi đã sử dụng nhiều cuộc phục kích địa phương. Chúng tôi đã dựa nhiều vào giới nông dân được vũ trang mà chúng tôi đã huấn luyện. Đây là cuộc chiến tranh nhân dân. Các lực lượng địa phương quân đã cung cấp sự phòng thủ chính yếu. Các lực lượng chủ lực quân được giữ làm trừ bị. Địa thế dồn các lực lượng QĐGPNDTQ vào các khe núi hẹp. Họ không được huấn luyện và chưa sẵn sàng chiến đấu. Họ đã chỉ phá hủy Lạng Sơn sau khi gánh chịu các tổn thất khổng lồ.66

Bất kể việc pháo kích dữ dội vào các vị trí của họ, dân quân Việt Nam đã phòng thủ một cách anh hùng các thị trấn biên giới then chốt tại Đồng Đăng, Cao Bằng, và Đồng Khê, khiến cho QĐGPNDTQ phải trả một giá đắt trước khi sau rốt chiếm cứ được chúng. Sau khi tái tập hợp từ các sự tổn thất nặng nề tại các trận đánh đó, QĐGPNDTQ đã khởi sự điều đối với nó là trận đánh quyết định của chiến dịch, trận đánh chiếm Lạng Sơn. Tác giả Harlan Jencks còn cung cấp sự tường thuật rõ ràng và cô đọng nhất về trận đánh đó:

Cuộc bao vây của Trung Quốc ở Lạng Sơn đã khởi sự hôm 27 Tháng Hai bằng một cuộc công kích của xe tăng và bộ binh, mở màn trước bằng một trận pháo kích ồ ạt vào cao điểm then chốt của Khấu Mã Sơn, phía bắc thành phố. Trong những ngày theo sau, các đơn vị QĐGPNDTQ tới cấp trung đoàn đã tiến quân quanh các cạnh sườn của Lạng Sơn, thường giao chiến vào buổi tối và ở tầm gần cận. Cuộc tấn công vào Lạng Sơn đã bắt đầu hôm 2 Tháng Ba, trong khi trận đánh giành một số cao điểm chung quanh đang tiếp diễn. Ba ngày kế đó đã chứng kiến loại chiến đấu dữ tợn nhất, khi quân phòng thủ di chuyển từng ngôi nhà một, từng căn hầm một, và từng đường hào một. “Sự thất thủ của Lạng Sơn” được tường thuật ngay từ ngày 27 Tháng Hai, và gần như hàng ngày sau đó. Tân Hoa Xã đã công bố một ảnh chụp xác nhận sự chiếm đoạt hôm 3 Tháng Ba, nhưng sự giao tranh còn tiếp tục trong hai ngày nữa.67

Ngay sau khi sau rốt chiếm đoạt được Lạng Sơn hôm 5 Tháng Ba, Bắc Kinh đã tức thời loan báo rằng QĐGPNDTQ sẽ triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Trong hai tuần kế đó nó đã làm đúng như thế, tuyên bố rằng đã dạy cho Việt Nam bài học chủ định của nó.

Phần lớn các nhà quan sát Tây Phương cảm thấy bài học ở đường hướng khác, và rằng QĐGPNDTQ đã không tự chứng tỏ mình một cách mỹ mãn trong cuộc giao tranh. Ngoài các vấn đề chiến thuật được nêu ra, sự chậm chạp của cuộc tấn công, và các số tổn thất này được tường thuật lên tới 25,000 người bị chết, các sự truyền tin giữa các đơn vị yếu kém, và trong nhiều trường hợp, QĐGPNDTQ đã dùng cờ để truyền tin giữa các trung đoàn. 68Sự tiếp vận cũng bị trục trặc và đã hạn chế cuộc tiến quân của QĐGPNDTQ, khi các đơn vị chiến đấu đã phải phái lính bộ binh đi hàng chục dậm đường đến các căn cứ yểm trợ tại Trung Quốc hầu tái bổ sung thực phẩm căn bản và đạn dược. Việt Nam có tường thuật rằng QĐGPNDTQ còn dùng cả ngựa để di chuyển quân dụng băng ngang biên giới.

Tuy nhiên, QĐGPNDTQ có phô bày một vài sức mạnh. Thí dụ, nó đã biểu lộ một sự sẵn lòng thúc đẩy cuộc tấn công bất kể các sự tổn thất nặng nề. Trong khi không chắc chắn về mặt chiến thuật, chiến lược tấn công với một tiểu đoàn nơi mà một đại đội bị thất bại, và với một trung đoàn nơi mà một tiểu đoàn bị thất bại, sau cùng đã dẫn đến sự chiếm đoạt năm tỉnh lỵ mục tiêu.

QĐGPNDTQ đã thành công trong việc tập trung pháo binh của nó để hỗ trợ cho cuộc tấn công vào các vị trí cố định. Trong khi bị hạn chế bởi các khó khăn về tiếp vận, pháo binh rõ ràng đã tạo ra một phần to lớn trong các số tổn thất của Việt Nam, được ước lượng có hơn 20,000 người bị chết.

QĐGPNDTQ cũng đã tiếp tục sử dụng chiến tranh chính trị một cách hữu hiệu, nổi bật nhất bằng việc trang bị vũ khí cho một số nhóm dân tộc ít người có truyền thống kháng cự lại nhà cầm quyền Việt Nam. Một số trong các người này bao gồm cả các người gốc Hoa đã từng chiến đấu chống lại Việt Minh trong Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất; nhưng phần lớn là dân miền núi đơn giản tìm cách duy trì các phương cách truyền thống của họ đối diện với sự xâm lấn văn hóa của Việt Nam. 69

Kết Cuộc

Trong lúc có cuộc triệt thoái của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình có tuyên bố rằng QĐGPNDTQ đã có thể đi trọn con đường tới Hà Nội nếu nó muốn làm như thế. Các tướng lĩnh hàng đầu của QĐNDVN không đồng ý. Họ vạch ra rằng QĐGPNDTQ đã không thi hành nhiệm vụ tốt và rằng QĐNDVN, được ủng hộ bởi một dân chúng Việt Nam đã được động viên, sẽ giáng cho QĐGPNDTQ một sự thất trận nghiêm trọng nếu nó di chuyển sâu hơn xuống phía nam. Theo một tướng lĩnh cao cấp Việt Nam, Trung Quốc đã thua về mặt quân sự và đánh tháo lui vội vã: “Sau khi chúng tôi đã đánh bại họ, chúng tôi trải thảm đỏ cho họ rời khỏi Việt Nam”. 70

Phần lớn các tác giả Tây Phương đồng ý rằng Việt Nam trong thực tế đã giao chiến xuất sắc hơn QĐGPNDTQ trên chiến trường, nhưng nói rằng với sự chiếm đoạt được Lạng Sơn, QĐGPNDTQđã cân nhắc về việc di chuyển vào địa hình thuận lợi hơn về mặt quân sự của Châu Thổ sông Hồng, và từ đó đến Hà Nội. 71Các sĩ quan cao cấp QĐNVN tranh luận về sự xác quyết này. Họ vạch ra rằng Lạng Sơn cách biên giới Trung Quốc chưa đầy 20 cây số, nhưng đường xuống tới vùng Châu Thổ còn gấp đôi đoạn đường đó. Quốc Lộ số 1 từ Lạng Sơn xuôi nam chạy ngang qua một thung lũng được kẹp hai bên sườn bởi nhiều đồi núi cung cấp đầy cơ hội để phục kích. Một khi tới Châu Thổ, địa hình tiếp tục thích hợp cho sự phòng thủ, với các tầm khai hỏa rộng mở cho quân phòng thủ đàng sau các bờ đê ruộng với đầy đủ cây cối để ẩn náu. Hơn nữa, QĐGPNDTQ sẽ kéo dài một cách nguy hiểm các tuyến tiếp tế của nó bằng ngang một địa thế trong đó các lực lượng phi chính quy Việt Nam vẫn có thể phóng ra các cuộc tấn công nghiêm trọng, như đã được chứng tỏ bởi các cuộc đột kích của nó vào bên trong Trung Quốc trong trận đánh Lạng Sơn. Vả lại, ít nhất năm sư đoàn QĐNDVN vẫn còn đang ở tư thế sẵn sàng phản công tại vùng Châu Thổ, và 30,000 binh sĩ QĐNDVN bổ túc từ Căm Bốt, cùng với vài trung đoàn từ Lào, đang di chuyển để hậu thuẫn cho chúng. Sau cùng, dân chúng Việt Nam đã được động viên cho một cuộc “chiến tranh nhân dân” kéo dài. 72

Trong bất kỳ trường hợp nào, sự triệt thoái các binh sĩ Trung Quốc ra khỏi Việt Nam vào cuối Tháng Ba đã mang lại cho Hà Nội một sự nhẹ nhõm đáng kể. Sự xây dựng các vị trí phòng thủ tại và chung quanh thủ đô được chấm dứt, và sự tái xây dựng Lạng Sơn và các thị trấn khác bị phá hủy bởi quân xâm lược đã khởi sự. Sự triệt thoái cũng có nghĩa QĐGPNDTQ đã có thể tiếp tục duy trì áp lực trên Pol Pot, trong khi đám quân du kích lẩn trốn của ông ta, nhiều người trong số cán bộ của họ được huấn luyện bởi QĐNDVN tại trung tâm huấn luyện ở Hòa Bình, đã tìm cách vượt thoát mạng lưới của QĐNDVN quanh Phnom Penh và tiến vào một cuộc chiến tranh du kích kéo dài.

Tuy nhiên, sự triệt thoái của Trung Quốc đã không có nghĩa một sự chấm dứt cuộc xung đột biên giới. Trong thập niên kế đó, các đơn vị QĐNDVN, cùng với một lớp dân quân được tái huấn luyện và tái trang bị, bị buộc phải duy trì nhiều đến 800,000 người tại miền Bắc Việt Nam. Các cuộc chạm súng thường xuyên tiếp tục diễn ra dọc biên giới, điển hình đi kèm bởi một cuộc pháo kích của pháo binh, tuần cảnh, và các cuộc tấn công nhỏ cách biên giới trong vòng vài cây số. Đôi khi, việc nã trọng pháo của QĐGPNDTQ vào Việt Nam trở nên dữ dội, và một vài trận đánh quan trọng đã được giao tranh trong đó các đơn vị QĐGPNDTQ lớn đến cấp sư đoàn đã tham chiên. Trong phần lớn trường hợp, quân phòng thủ Việt Nam đã tìm cách chống giữ các vị trí then chốt dọc biên giới, nhung các lực lượng QĐGPNDTQ đã có thể chiếm đoạt và nắm giữ trong một thời khoảng đáng kể ít nhất tám địa hình then chốt tại phía tây bắc của Hà Giang, gần con sông Lô lịch sử của Việt Nam chảy ngang qua Trung Quốc. 73

Các cuộc tấn công biên giới quan trọng của QĐGPNDTQ nói chung được ấn định thời điểm trùng hợp với hoạt động quân sự của Việt Nam tại Căm Bốt. Vào cuối năm 1983, và lập lại trong năm 1984 và 1985, khi các binh sĩ Việt Nam đẩy mạnh các cuộc tấn công của họ đánh quân Khmer Đỏ đang chạy trốn tại các vùng biên giới Thái Lan – Căm Bốt, các lực lượng QĐGPNDTQ đã lập lại các cuộc tấn công dọc biên giới phía bắc của Việt Nam. Trong mùa xuân 1984, và một lần nữa vào cuối năm đó, khi QĐNDVN đẩy mạnh các cuộc tấn công đánh vào các nơi ẩn náu của Khmer Đỏ ngay bên kia biên giới Thái Lan, QĐGPNDTQ đã phóng ra các cuộc tấn công nhiều sư đoàn được yểm trợ bởi hàng nghìn quả đạn trọng pháo. Theo các nguồn tin Việt Nam, “Trung Quốc đã cảm thấy nó có thể đặt áp lực trên Việt Nam nhằm cấm chỉ áp lực của chúng tôi trên phe Khmer Đỏ, nhưng điều đó đã sai. Áp lực của Trung Quốc đã không đưa đến bất kỳ lợi thế nào cho phe Khmer Đỏ”. 74Theo các nhà ngoại giao Việt Nam đã hồi hưu, Trung Quốc cũng vẫn đang tìm cách làm suy yếu QĐNDVN:

Trung Quốc tiếp tục chính sách thù nghịch của nó đối với Việt Nam từ 1979 đến 1990. QĐGPNDTQ đã phát động các cuộc tấn công nhỏ dọc theo biên giới và tạo ra các khó khăn trong một mưu toan làm suy yếu Việt Nam. Từ 1985 trờ đi, Việt Nam đã muốn bình thường hóa các quan hệ, nhưng đã chỉ thành công vào năm 1991, bởi vì vào thời khoảng đó chúng tôi rút ra khỏi Căm Bốt, và bởi vì Hoa Kỳ và khối ASEAN đã thay đổi chính sách.75

Theo Bộ Ngoại Giao [Việt Nam], đã không có các sự trao đổi ở cấp cao cho đến năm 1989. 76

Trong năm 1989, chúng tôi bắt đầu các cuộc thuơng thảo ngoại giao về việc bình thường hóa các quan hệ. Trong Tháng Một 1989 chúng tôi đã khởi sự các cuộc đàm phán tại Bắc Kinh ở cấp thứ trưởng ngoại giao. Trong Tháng Mười Một 1991, Tổng Bí Thư và Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam đã đến Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo của hai nước đã đồng ý đặt quá khứ ở phía sau họ và hướng nhìn về tương lai, và để cải thiện và bình thường hóa các quan hệ phù hợp với các quyền lợi của cả hai dân tộc, và để phát huy hòa bình, hợp tác và phát triển.

Chỉ khi đó, sau khi Việt Nam đã rút các lực lượng của nó ra khỏi Căm Bốt, hòa bình mới có thể khả hữu dọc biên giới phía bắc. 77

Nhìn lại: Các nguyên nhân tâm lý của cuộc xung đột

Các sự khẳng định của Việt Nam về sự độc lập hoàn toàn

Trong năm 1975, Hà Nội đã ở trên cao độ. Nó đã đánh bại một cách thành công “quân ngụy” ở miền nam, và đang giương cao ngọn cờ thắng lợi của “độc lập và tự do” trên một xứ sở thông nhất. “Không gì quý hơn độc lập và tự do” đã là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh trên nóc các công thự và trên cửa miệng của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong thời kỳ ngay sau chiến tranh. 78Các sĩ quan cao cấp QĐNDVN đã lập lại câu nói này trong năm 1999, nói thêm rằng “lịch sử của Việt Nam là một lịch sử của cuộc đấu tranh giành độc lập”. 79Một tướng lĩnh Việt Nam cao cấp đã tóm lược một cách cô đọng lập trường của Việt Nam: “Trong mười ba cuộc chiến tranh chính yếu suốt dòng lịch sử, chúng ta đã chặn đứng người Trung Hoa. Bằng chứng là chúng tôi vẫn còn ở đây sau hai nghìn năm”. 80

Chống lại mọi điều bất lợi, Hà Nội đã đạt được “chính nghĩa” của nó. Sau khi đánh bại cả người Pháp lẫn người Mỹ, nó đã sẵn sàng để bắt đầu tái xây dựng nền kinh tế tả tơi của nó và đứng lên như một kiểu mẫu phát triển cho Thế Giới Thứ Ba. Nó đã không chịu đựng bất kỳ sự can thiệp nào từ Trung Quốc. 81Tuy nhiên, trong sự nhiệt thành về vị thế mới của nó, Hà Nội đã không đánh giá đúng và giải tỏa được các sự nhậy cảm của Trung Quốc. “Trung Quốc đã quan ngại bởi vì chúng tôi đã không phải quay trở lại với họ và khấu đầu (kow tow)”, một nhân vấn Việt Nam có nói. “Trung Quốc đã bán đứng Việt Nam tại Hội Nghị Geneva năm 1954, và đã điều đình với Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh chống Mỹ [tức Chiến Tranh Việt Nam] để cho phép dội bom Việt Nam Dân Chủ Công Hòa (VNDCCH). Sau Chiến Tranh chống Mỹ, Trung Quốc chỉ tìm cách để tái khẳng quyết sự kiểm soát của nó và chúng tôi đã không nhìn nhận nó đúng lúc. Chúng tôi đã phạm các lỗi lầm trong đường hướng của chúng tôi đối với Trung Quốc”. 82

Các quan điểm của Việt Nam về các sự kỳ vọng của Trung Quốc

Các nhận thức của Việt Nam về chính họ như một dân tộc, và đặc biệt trong vai trò mới của họ như một gương mẫu cho cuộc tranh đấu của các nước Thế Giới Thứ Ba giành độc lập và phát triển kinh tế, mâu thuẫn một cách rõ rệt với các quan điểm của Trung Quốc. Trước tiên, theo phía Việt Nam, Trung Quốc cảm thấy Việt Nam mắc nợ nó tiếp theo sau các năm có sự ủng hộ của Trung Quốc cho cuộc “cách mạng”. Trung Quốc đã trợ giúp cho phe Việt Minh lưu vong, cung cấp các trang bị trọng yếu cho cuộc chiến thắng tại Điện Biên Phủ, đã cung cấp một “hậu cứ to lớn” cho việc huấn luyện và tiếp vận trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, và đã đóng góp các xe vận tải, các vũ khí nhỏ, và năm mươi nghìn binh sĩ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ. Có lẽ điều quan trọng nhất cho sự chiến thắng của Hà Nội là sự ủng hộ của Trung Quốc đã thuyết phục Hoa Thịnh Đốn rằng bất kỳ cuộc tấn công trên đất liền nào đánh vào Bắc Việt Nam sẽ đưa đến việc tham gia của các chí nguyện quân Trung Quốc vào cuộc chiến tranh. 83

Thứ nhì, Trung Quốc đã cảm thấy rằng Việt Nam phải tham khảo với Trung Quốc trên các vấn đề quốc phòng và chính sách ngoại giao quan trọng. Theo một nhà nghiên cứu cao cấp tại Hà Nội, Trung Quốc đã muốn biến Việt Nam thành một thuộc địa và kiểm soát chính sách ngoại giao và quốc phòng của Việt Nam. Điều này đặc biệt đúng khi liên quan đến Đông Nam Á, nơi mà Bắc Kinh đã nhìn vai trò tương lai của nó như lấp đầy khoảng trống được để lại bởi sự triệt thoái của Mỹ. Trong khi các sự căng thẳng song phương phát sinh với Việt Nam, Trung Quốc đã đóng vai trò “kẻ bảo vệ” cho các nước Đông Nam Á chống lại Việt Nam trong một nỗ lực làm gia tăng ảnh hưởng cấp vùng của nó. Theo phía Việt Nam, Trung Quốc đã muốn là không có quyết định quốc phòng hay chính sách ngoại giao quan trọng nào sẽ được lấy mà không có sự tán đồng của Trung Quốc. 84

Thứ ba và quan trọng nhất, Bắc Kinh đã tìm cách tái khẳng quyết tham vọng đế quốc trong nhiều thế kỷ của nó để kiểm soát Việt Nam xuyên qua một mối quan hệ cha con kiểu Khổng học. Một sĩ quan cao cấp của QĐNDVN có trích dẫn một câu nói của một hoàng đế Trung Hoa về vấn đề này: “Trong ngôi nhà của chính bạn, bạn không thể vứt bỏ chính sách trừng trị các đưa con của chính bạn”. Tương tư, theo lời ông ta, “Bắc Kinh đã không thể bỏ sang một bên chính sách phóng ra chiến tranh đánh Việt Nam. Nó chỉ có vấn đề đánh như thế nào”. 85Một viên chức Việt Nam khác nói rằng Trung Quốc có một cái nhìn từ lâu về Việt Nam như “một đứa con hỗn hào tại ranh giới phía nam của nó. Cuộc tấn công của nó đã tìm cách cưỡng hành các quan điểm Trung Quốc được gìn giữ sâu đậm về chủ quyền của nó trên Việt Nam”. Trích dẫn một ngạn ngữ Trung Hoa cổ xưa, ông ta nói;” “Cơn lạnh lẽo của một ngày duy nhất không thể làm đông đặc một dòng sông sâu ba bộ Anh (feet) (nói rõ hơn, Trung Quốc đã không thể trở nên thù nghịch với Việt Nam chỉ qua một đêm). 86

Các bài học lĩnh hội được

Trong khi điều được công nhận một cách tổng quát rằng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc. Một viên chức Việt Nam đã giải thích bài học này như sau: “Bất kể ‘sự sông chung hòa bình’, CHNDTQ sẽ lượng định tình hình, và khi ở vào đúng thời cơ, sẽ lợi dụng các cơ hội để tiến đánh cho các mục tiêu chính trị”. 87Một viên chức khác đã bác bỏ bất kỳ khái niệm nào về một ý thức hệ chính trị chung của Trung Quốc – Việt Nam: “Lập trường ý thức hệ của Trung Quốc không có nghĩa gì cả. Trước khi có cuộc chiến, chúng tôi đã tin tưởng nơi chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sau cuộc chiến, chúng tôi nhận thấy các quyền lợi quốc gia của Trung Quốc là trên hết. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một phần trong hành lý ý thức hệ của Việt Nam”. 88

Bài học thứ nhì các viên chức Việt Nam lĩnh hội được rằng Trung Quốc nhiều phần sẽ chỉ viện dẫn đến vũ lực khi nó chắc chắn rằng nó sẽ không bị đánh bại và khi nó biết rằng QĐGPNDTQ sẽ không phải nhận các sự tổn thất nặng nề. Với các tiền lệ quân sự lịch sử khác, số ước lượng được trưng dẫn ttrước đây về 25,000 binh sĩ QĐGPNDTQ bị chết trong khi hoạt đông có thể có nghĩa ít nhất 50,000 người khác chịu tổn thương nghiêm trọng, cho một tổng số 75,000 tổn thất trên một lực lượng xâm lăng khoảng 100,000 quân. Trung Quốc chắc chắn lấy làm kinh ngạc về các sự tổn thất mà nó phải gánh chịu ở Việt Nam, và có thể đã lùi lại khỏi các cuộc tấn công thêm nữa ít nhất một phần nhằm tránh các sự tổn thất bổ túc.

Thứ ba, Trung Quốc nhiều phần sẽ chỉ sử dụng vũ lực khi nó nhân thấy tình trạng đã hoàn toàn chín mùi. Điều này đòi hỏi sự phân tích tình hình quốc tế liên hệ — cuộc tấn công năm 1979 được phán đoán là thuận lợi bởi Bắc Kinh đã ước tính rằng LBSV sẽ không can thiệp và QĐNDVN bị buộc chân tại một mặt trận thứ nhì ở Căm Bốt. Sự phân tích của Trung Quốc trải rộng cho đến sự ấn định thời biểu chính xác của cuộc tấn công: nó sẽ theo sau sự bình thường hóa với Hoa Kỳ nhưng đi trước các trận mưa to theo gió mùa đổ xuống miền bắc Việt Nam bắt đầu trong mùa xuân.

Thứ tư, phía Việt Nam bị phân hóa về việc QĐGPNDTQ đã hoạch định và chuẩn bị cuộc tấn công năm 1979 trong bao lâu. Các vị chỉ huy quân đội có khuynh hướng tin tưởng rằng Trung Quốc đã không hoạch định cuộc tấn công từ rất lâu bởi một cách đơn giản QĐGPNDTQ thật là quá thiếu chuẩn bị để chiến đấu. Tuy nhiên, các nguồn tin ngoại giao nhấn mạnh rằng cuộc tấn công có mưu tính trước. Một cựu viên chức ngoại giao Việt Nam cao cấp có nói “chúng tôi giờ đây hay biết họ đã chuẩn bị tấn công chúng tôi trong một thời gian dài, tương tự như tất cả các cuộc chiến tranh khác mà Trung Quốc đã tham dự ngoại trừ tại Triều Tiên. Trong tất cả các cuộc chiến tranh khác – Triều Tiên, Tây Tạng, Ấn Độ, LBSV, chống lại người Mỹ tại Việt Nam – chỉ có Triều Tiên là không được hoạch định trước”. 89Chính vì thế, trong khi bài học cho giới quân sự là một cuộc tấn công có thể xảy ra đột ngột, các nhà ngoại giao nhìn thấy một thời kỳ đáng kể của sự chuẩn bị cần thiết trong đó họ có thể kỳ vọng để nhìn thấy các sự cảnh báo chính trị.

Thứ năm, mọi người Việt Nam đều đồng ý rằng viễn ảnh một sự kháng chiến mạnh mẽ của Việt Nam đã là yếu tố giới hạn trong cuộc tấn công của Trung Quốc. Việt Nam hứa hẹn sẽ giao chiến đến cùng. “Các cha ông chúng tôi, chỉ dùng cung tên, các con voi, các con ngựa, dao và kiếm, đã đập tan nhiều đội quân của các kẻ xâm lược thuộc nhà Nam Hán, nhà Tống, Nguyên-Mông, và nhà Thanh Mãn Châu. Giờ đây [1979] QĐNDVN với các vũ khí tương đối hiện đại chắc chắn sẽ đánh bại các kẻ bành trướng Đại Hán tại Bắc Kinh”. 90

Thứ sáu, Việt Nam lĩnh hội được là đừng ỷ vào các đại cường. Trong khi ca ngợi sự trợ giúp của Sô Viết vào lúc đó, Việt Nam rõ ràng đã thất vọng về mức độ của các sự trợ giúp như thế. Một cựu viên chức chính phủ có nói thông điệp mà Trung Quốc tìm cách chuyển đi là: “Chúng tao có thể trừng phạt mày bất kỳ khi nào, ngay cả khi mày liên minh với một đại cường. Mày không thể chạy trốn được tư thế địa chính trị của mày như một nước triều cống”. 91

Thứ bảy, đối với nhiều người Việt Nam, bài học chính yếu của năm 1979 là Trung Quốc sẽ không cho phép sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam. “Thái độ của Trung Quốc, như được phản ảnh trong “việc dạy cho Việt Nam một bài học”, có gốc rễ trong văn hóa chính trị Trung Quốc của mối quan hệ của Vương Quốc Trung Tâm với các nước triều cống. Loại bài học mà Trung Quốc đã tìm cách để truyền đạt là “ mày không thực sự độc lập”. 92

Sau cùng, mọi người Việt Nam đều đồng ý rằng việc đối phó với Trung Quốc sẽ là vấn đề khó khăn nhất đối diện dân tộc họ trong thế kỷ thứ hai mươi mốt: “Chúng tôi đã phải giao tranh mười ba cuộc chiến tranh lớn với Trung Quốc trong lịch sử chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi đã biết cách chống trả Trung Quốc và chúng tôi phải chuẩn bị giống như thế. Tổ tiên chúng tôi cũng đã phải thực hiện các biện pháp để loại trừ chiến tranh, và chúng tôi phải có các biện pháp tương tự trong tương lai”. 93Và, “Chúng tôi phải học để sống với lân bang to lớn của chúng tôi. Chúng tôi giờ đây có một mối quan hệ nhiều mặt với Trung Quốc, và đã tăng cường mọi khía khía cạnh của các quan hệ của chúng tôi. Chính sách của chúng tôi là tìm các phương cách để sống chung với Trung Quốc” [sic]. 94
__

CHÚ THÍCH

  1. “He who sows the wind will reap the whirlwind” [“Kẻ gieo gió sẽ gặt bão”], Quân Đội Nhân Dân, từ giờ trở đi viết tắt là QĐND, Hà Nội, Việt Nam Thông Tấn Xã(Viêtnam News Agency: VNA), 18 Tháng Hai, 1979, như được tường thuật trong bản tin của Foreign Broadcast Information Service(Sở Thông Tin Đài Phát Thanh Ngoại Quốc), Washington D. C., (từ giờ trở đi viết tắt là FBIS), các trang K25, K28.
  2. Đúng thực có cả hàng nghìn quyển sách và bài viết đề cập đến các biến cố này; quyển The Two Vietnams: A Political and Military Analysis(New York: Praeger, 1967) của Bernard Fall và quyển The Lost Crusade: America in Vietnam của Chester Cooper(New York: Dodd, Mead, 1970) vẫn nổi bật trong số các tác phẩm hay nhất. Các phi công Hoa Kỳ bị cấm không được dội bom trong vòng hai mươi lăm dậm của biên giới Trung Quốc; các cuộc thảo luận của tác giả với các phi công của Hải Quân Hoa Kỳ và Không Quân Hoa Kỳ.
  3. Người ta có thể lập luận rằng chiến tranh Hoa Kỳ bắt đầu với sự du nhập các đơn vị chiến đấu Mỹ trong năm 1965 và kết thúc với sự triệt thoái chúng vào năm 1973. Tuy nhiên, thời khoảng được lựa chọn ở đây đi theo điều được tìm thấy trên Bức Tường Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn. Nó bao gồm thời kỳ cố vấn trước năm 1965 và một thời kỳ ủng hộ về quân dụng và kỹ thuật của Hoa Kỳ sau các Hiệp Định Paris năm 1973.
  4. Phỏng vấn với nhà nghiên cứu cao cấp và một cựu đại sứ Việt Nam, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, viết tắt là cựu đại sứ Việt Nam).
  5. Muốn có một cuộc thảo luận về “Bản Chúc Thư Cuối Cùng” của Hồ Chí Minh, xem Thái Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism: An Essay on Ho Chi Minh’s Legacy(Singapire: Institute of Southeast Asian Studies, 1985).
  6. Phỏng vấn với các nhà nghiên cứu cao câp, Bộ Ngoại Giao (BNG), Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi viết tắt là các nhà nghiên cứu cao cấp (BNG).
  7. Phỏng vấn với các thượng tá của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi viết tắt là các thượng tá QĐNDVN).
  8. Phỏng vấn với cựu nhân viên ngoại giao Việt Nam cao cấp, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đị gọi tắt là nhân viên ngoại giao cao cấp). Các cuộc tấn công vào các làng xã Việt Nam dọc theo biên giới được kiện chứng rất đầy đủ bởi tác giả Nayan Chanda trong quyển sách tuyệt hảo của ông ta, Brother Enemy: The War After The War(San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1986).
  9. Phỏng vấn với các nhà nghiên cứu cao cấp, Học Viện Quan Hệ Quốc Tế (HVQHQT), Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, viết tắt là HVQHQT).

10. Phía Việt Nam đề cập đến chiến lược này là dang [đánh?] nam ra bắc, “đánh phương nam và đi ra phương bắc”, có nghĩa điều cần thiết trong suốt dòng lịch sử là phải bảo toàn sườn phía nam của Việt Nam trước khi đối đầu với Trung Quốc.

11. 17. Nhân viên ngoại giao cao cấp; sự giải thich này mâu thuẫn với quan điểm quân sự cao cấp rằng QĐGPNDTQ lo sợ các đơn vị QĐNDVN ưu tú đã là lý do áp đảo khiến cho QĐGPNDTQ không tiến sâu hơn vào Việt Nam.

12. Phỏng vấn với cựu nhân viên ngoại giao cao cấp và các sĩ quan cao cấp QĐNDVN, 1999. Các lời bình luận này dĩ nhiên đã bỏ quên một cách thuận tiện sự đề cập đến các khó khăn biên giới nghiêm trọng chưa được giải quyết của Trung Quốc vào lúc đó với LBSV.

13. Phỏng vấn với tướng lĩnh QĐNDVN, Hà Nội, 1999 (từ giờ trở đi, gọi tắt là tướng lĩnh QĐNDVN).

14. Phỏng vấn với các phụ khảo của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999. Các nhà nghiên cứu Việt Nam nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu về kỹ thuật và tư bản như động lực chính yếu của Trung Quốc trong việc tìm kiếm sự hòa hoãn với Hoa Kỳ.

15. Các Thượng Tá QĐNDVNtướng lĩnh QĐNDVN. Henry Kissinger được nói có nhận xét: “Chúng ta sắp được nhìn các Anh Em Đỏ đánh nhau”.

16. Các nhà nghiên cứu Việt Namcựu đại sứ Việt Nam. Trung Quốc đã sẵn chiếm cứ phần phía đông của Quần Đảo Hoàng Sa, nhưng trong năm 1974 đã đanh đuổi binh sĩ Nam Việt Nam ra khỏi phân nửa phía tây của quần đảo.

17. Phỏng vấn với các cựu viên chức và các viên chức tại chức của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.

18. Đài Phát Thanh Hà Nội. “Các nhà cầm quyền Ngăn Cấm Các Bản Tường Thuật của Các Công Dân Về Chiến Tranh”, 21 Tháng Hai, 1979, FBIS, 21 Tháng Hai, trang K21.

19. Giác Thư Bộ Ngoại Giao Về Các Sự Thù Nghịch Của CHNDTQ, 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 15 Tháng Hai, trang K2.

20. Xem Chanda, Brother Enemy, 1986, các trang 231-47.

21. Các viên chức Bộ Ngoại Giao đã viện dẫn câu chuyện chuyến tàu như một thí dụ về sự can thiệp của Trung Quốc vào các công việc nội bộ của Việt Nam.

22. Pao-min Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute(New York: Praeger, 1986), các trang 11-12.

23. Các Thượng Tá QĐNDVN. Các sĩ quan QĐNDVN đã nhận xét một cách tình cờ rằng LBSV trợ lực việc xúi bẩy cuộc Chiến Tranh Triều Tiên nhằm tạo hố phân cách sâu xa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

24. Cùng nơi dẫn trên; và Pao-min Chang, The Sino-Viêtnamese Territorial Dispute.

25. Gặp gỡ với các viên chức Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội, Tháng Mười 1993.

26. Viên chức Bộ Ngoại Giao,Hà Nội, 1999. Trong năm 1947, Trung Hoa đã vẽ đường chín vạch bỉ ổi trên bản đồ Biển Nam Hải của nó, để chỉ sự kiểm soát bất kỳ khu vực hải đảo nào được vây quanh trong đó.

27. Pao-min Chang, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute.

28. Cùng nơi dẫn trên; và The Daily Telegraph, “Soviet Warships Heading for Cam Ranh Bay”, London, 9 Tháng Hai, 1979, FBIS, 9 Tháng Hai, trang K1.

29. Gặp gỡ với các chuyên viên Việt Nam về các vấn đề an ninh, Hà Nội, Tháng Một 1999.

30. Đài Phát Thanh Hà Nội, 6, 9, và 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 7 Tháng Hai, trang K1, ngày 9 Tháng Hai, trang K9, và ngày 15 Tháng Hai, trang K1. Các sự việc bắt đầu gia tăng khi Hà Nội tiến xuống và sau đó đạt được thắng lợi tại Nam Việt Nam. Hà Nội đã tường thuật 179 vụ trong năm 1974, 294 vụ trong năm 1975, 812 vụ trong năm 1976, và 873 vụ trong năm 1977.

31. Hà Nội, Thông Tấn Xã Việt Nam, “SRV Defies Economic ‘Trilateral’ Washington-Peking Axis”, và “QĐND Tố Cáo CHNDTQ về các sự vi phạm biên giới”, 1 Tháng Hai, 1979, FBIS, các trang K1-5.

32. Các Thượng Tá QĐNDVN; và Đài Phát Thanh Hà Nội, 6 Tháng Hai, 1979, FBIS, 7 Tháng Hai, trang K1.

33. Đài Phát Thanh Hà Nội, “Các Vụ Đột Nhập Vũ Trang của CHNDTQ được tường thuật”, 5 Tháng Hai, 1979, FBIS, trang K1. Các binh sĩ Trung Quốc đã dùng dao và rìu để khai quang các khu rừng, hủy hoại thảo mộc, và tháo gỡ và di chuyển các cột mốc biên giới.

34. Đài Phát Thanh Hà Nội, 13 Tháng Hai, 1979 và Tuyên Bố Của Bộ Ngoại Giao, 14 Tháng Hai, 1979, như được tường thuật trong FBIS, trang K1.

35. Đài Phát Thanh Hà Nội, “Các Nhà Cầm Quyền Bắc Kinh Đang Gia Tăng Khiêu Khích và Đe Dọa Chiến Tranh”, 13 Tháng Hai, 1979, FBIS, trang K4.

36. Tướng lĩnh QĐNDVN.

37. Trích dẫn đầu tiên từ một nhà nghiên cứu Việt Nam tại Học Viện Quan Hệ Quốc Tế, trích dẫn thứ nhì từ một viên chức của Bộ Ngoại Giao, Tháng Một, 1979.

38. Sự tin tưởng này rất có thể phát sinh từ các cảm nghĩ của Hà Nội về phong trào phản chiến mạnh mẽ tại Hoa Kỳ trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam, Tướng lĩnh QĐNDVN.

39. David Bonovia, Far Eastern Economic Review (FEER), (9 Tháng Ba, 1979). 12.

40. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey19 (August 1979), 807, và Russell Spurr, FEER, “Holding Back the Angry Giant” (9 Tháng Ba, 1979), 14-15.

41. Đài Phát Thanh Hà Nội, 14 Tháng Hai, 1979, FBIS, 15 Tháng Hai, trang K2.

42. Russell Spurr, FEER(2 Tháng Ba, 1979), 10. Cũng xem King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions and Implications(Stanford: Hoover Institution Press, 1987).

43. Guang Jiao Jing, Hong Kong, số 78, 16 Tháng Ba, 1979 (như được tham chiếu trong bài của tác giả Jencks, “China’s War with Vietnam”, các trang 807-8, có trích dẫn một con số là 80,000, nhưng tác giả Nayan Chanda, viết trong tờ FEER một tuần sáu đó, trích dẫn sự phân tích tình báo Tây Phương khi ước lượng con số là 125,000 người. Cũng xem, Bonovia, FEER(9 Tháng Ba, 1979), 12.

44. Phỏng vấn với Đại Tá Edward O’Dowd, cựu Tùy Viên Quân Sự, Tòa Đại Sứ Mỹ tại Hà Nội, 1999, và với các sĩ quan Việt Nam và Pháp đã đánh lẫn nhau trên địa hình này trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất, 1946-54. Cũng xem, B. P. Mahony, Nha Tình Báo Cảnh Sát Liên Bang Úc Đại Lợi, “Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate”, 12 Tháng Năm, 1986.

45. Phỏng vấn với tướng lĩnh QĐNDVN đã hiện diện tại trận đánh, Hà Nội, 1999.

46. Jencks, “China’s War on Vietnam”, trang 811.

47. Phỏng vấn với các thông tín viên Nhật Bản, hãng thông tấn Kyodo News và tờ Asahi Shimbun, Tháng Tư, 1979. Các con số tổn thất từ cả hai bên đáng ngờ vực, nhưng các quan sát viên Tây Phương nói chung đồng ý rằng QĐGPNDTQ đã có khoảng 20,000 đến 30,000 người bị chết. Trong một luận án tiến sĩ được kiện chứng một cách kỹ lưỡng, tác giả Paul Marks có ước lượng số quân nhân bị chết trong khi hoạt động của QĐGPNDTQ là 26,000 người. Paul Marks, “The Sino-Vietnamese War of 1979 and China’s Military Modernization” (Luận án tiến sĩ chưa được ấn hành, Far East Department, School of Oriental and African Studies, University of London, 30 Tháng Chín, 1988).

48. Các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn gồm nhiều người Nùng. Nhóm chủng tộc Trung Hoa [sic] này trước tiên đã đánh nhau với Việt Minh và sau đó một số người Nùng đã chạy trốn trong năm 1954 xuống Miền Nam Việt Nam nơi họ sau này đã phục vụ sát cánh với Lực Lượng Đặc Biệt và Lực Lượng tinh nhuệ Delta Force của Lục Quân Hoa Kỳ. Nhiều quân nhân chuyên nghiệp đã xem họ là những chiến sĩ giỏi giang nhất của cuộc chiến.

49. Thí dụ, tác giả Jencks đã viết rằng sự chiếm đoạt Lạng Sơn đã mở con đường tiến vào Châu Thổ Sông Hồng (“China’s War on Vietnam”, trang 813), nhưng ông thừa nhận rằng QĐGPNDTQ sẽ phải nhận lãnh các sự tổn thất khổng lồ trong bất kỳ sự chuyển động nào tới Hà Nội. Muốn có sự lượng giá hơn nữa về đề tài này, xem Ann Gilkes, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance, 1970-1979(Berkeley: Institute of East Asian Studies, University of California, 1992), và Douglas Pike, Vietnam and China(Lubbock, TX|: Vietnam Center, Texas Tech University, 1998).

50. Phỏng vấn với tướng lãnh và nhân viên cao cấp của QĐNDVN, Hà Nội, 1999. Cũng xem Russell Spurr, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10. 30,000 binh sĩ QĐNDVN được tường thuật đã được không vận từ Căm Bốt lên vùng Châu Thổ miền bắc trong khi nhiều trung đoàn QĐNDVN di chuyển từ Lào vào tỉnh Lào Cai; AFP, Hông Kông, 23 Tháng Hai, 1979.

51. Tác giả B. P. Mahony có một sự phân tích tuyệt hảo về các trận đánh này trong bài “Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate”. Địa thế Sông Lôtrong các truyền kỳ nổi tiếng của Việt Nam, như được thấy, thí dụ, trong tác phẩm Ai Biết Sông Lô.

52. Phỏng vấn với tướng lĩnh Việt Nam cao cấp, Hà Nội, 1999. Tác giả đã ở Hà Nội trong năm 1984 và có thể chứng thực rằng sự lưu thông xe chở hàng duy nhất trong thành phố là của quân đội, hoặc hướng đên hay trở về từ mặt trận phương bắc.

53. Phỏng vấn vơi viên chức ngoại giao cao cấp của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.

54. Từ 1989 đến 1991, có các sự tường thuật rằng vài trăm “cố vấn” Việt Nam vẫn còn ở lại tại Căm Bốt. Cũng có ít cuộc tấn công riêng rẽ của QĐGPNDTQ dọc theo biên giới phía bắc cho đến 1991.

55. Các nhận xét của tác giả từ các buổi gặp mặt với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trường Trinh [? Nguyễn Duy Trinh], và các viên chức khác của chính phủ Việt Nam tại Hà Nội, Tháng Mười Hai, 1975.

56. Không cần để giải thích từ ngữ “can thiệp: interference”. Hồ Chí Minh đã mô tả nó một cách giản dị trong quyết định của ông ta không chấp nhận các chí nguyện quân Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Đông Dương Thứ Nhất: “Thà rằng ngửi phân Pháp trong ít năm còn hơn cứt Tàu trong nhiều thế hệ”, phỏng vấn của tác giả với các viên chức chính phủ, Hà Nội, 1975. Tầm quan trọng của “chính nghĩa: just cause” như động lực thúc đẩy của Hà Nội trong Cuộc Chiến Tranh Với Mỹ không thể bị nhấn mạnh một cách thái quá. Các từ ngữ [just cause] là sự phiên dịch từ ngữ Việt Nam chính nghĩa, có nghĩa “ý nghĩa vĩ đại của cuộc sống: the great meaning of life” [sic, sự giải thích có phần chưa được chính xác, chú của người dịch]. Thực hiện được một Việt Nam độc lập, thống nhất chính là chính nghĩanày.

57. Các nhà nghiên cứu cao cấp, HVQHQT. Dĩ nhiên, Trung Quốc đã có các lý do bổ túc cho sự ủng hộ của nó một Việt Nam bị phân chia trong năm 1954, bao gồm đường lối chính sách của nó về sự chung sống hòa bình và quan ngại về sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

58. Theo cựu Thủ Tướng Nam Việt Nam Nguyễn Cao Kỳ, việc này đã quyết định số phận của Nam Việt Nam. Ông đã so sánh cuộc chiến tranh với một trận đấu banh bầu dục (football) trong đó bên Hoa Thịnh Đốn – Sàigòn không được phép vượt qua lằn ranh năm mươi thước Anh (yards). Các cuộc thảo luận tại West Point, New York, 1972.

59. Phỏng vấn với một nhà nghiên cứu cao cấp và một viên chức của Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, Tháng Một, 1999.

60. Sĩ quan cao cấp QĐNDVN.

61. Phỏng vấn với viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, 1999.

62. Các nhà nghiên cứu cao cấp, BNG.

63. QĐND, “Cương Quyết Đánh Bại Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Phát Động Bởi Bọn Bành Trướng Bắc Kinh”, 17 Tháng Hai, 1979, FBIS, 18 Tháng Hai, trang K13. Cũng xem, Đài Phát Thanh Hà Nội, 23 Tháng Hai, 1979, FBIS, 23 Tháng Hai, trang K8.

Nguồn: Henry J. Kenny, Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China, Chinese Warfighting: The PLA Experience Since 1949, đồng biên tập bởi Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241.

Ngô Bắc dịch và phụ chú

MẠNG THAM KHẢO:

Bauxite Việt Nam

Đàn Chim Việt

Facebook

Petrotimes

VN Express

BBC

File: ITN-021914-VN-CT-Tuong niem 35 năm cuoc chien Bien gioi.doc

Nguyễn Mạnh Trí

E-Mail: prototri2012@yahoo.com

www.tranhchapbiendong.com

Tu chỉnh: 19 tháng 2 năm 2014



.

.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.