Trung Tâm Nghiên Cứu Pew tại Mỹ rất ngạc nhiên vơiù kết quả thăm dò chánh trị, xã hội học do Trung Tâm đã làm và công bố gần đây. Người Việt là dân tộc lạc quan nhứt Á châu trong cuộc sống. Nhiều thập niên chiến tranh tàn phá, nhiều thập niên sống dưới chế độ CS bị kiểm soát toàn diện chặt, tại sao người Việt lại lạc quan hơn Nam Hàn, Nam dương, Phi luật tân, Trung quốc, và Ấn độ" Lýù giải của Trung Tâm là nhờ CS Hà nội mở cửa với nước ngoài, chuyển đổi hệ kinh tế kế hoạch chỉ huy cứng rắùn sang kinh tế thị trường tự do từng bước nên tăng trưởng kinh tế quốc gia tăng 7% hàng năm. Những lý giải ấy đúng nhưng phiến diện, chỉ trên khiá cạnh kinh tế thôi. Lạc quan ấy xuất phát từ nguyên do sâu xa hơn. Đó là qui trình tiến đến tự do, dân chủ tất yếu không thể đảo ngược được, bắt đầu và bắt nguồn từ lịch sử, văn hoá của dân tộc Việt.
Một sự thật hiển nhiên dù người chống CS hết mình cũng thấy, kinh tế VN có phát triển từ khi CS mở cửa cho đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Không chối cãi được rằng đời sống của nhân dân có khấm khá hơn. Lạc quan nhứt là cán bộ, đảng viên lắm chức nhiều quyền lợi đồng nghĩa với nhiều tiền và lắm tiện nghi. Kế đến là số người ăn theo với tiện nghi đầy đủ của đồ ngoại nhập. Nhà cao cửa rộng trên mặt tiền đường, xe hơi đời mới phon phon trên đường phố là của hai hạng người vừa nóiï. Tiếp theo là nhân dân lao động làm cho người nước ngoài và có việc làm chuyên môn cố định. Nhưng đại đa số những người được hưởng lợi ích của cuộc đổi mới kinh tế chánh yếu là những thị dân có hộ khẩu thành thị vì phát triển kinh tế VN chánh yếu là ở thành phố với cơ ngơi và hạ tầng kiến trúc đã có sẵn từ thời VNCH, chớ chưa phát triển mới nhiều. Tư tưởng và thành phần của những người này cũng đã chuyển biến thành tư sản, trưởng giả học làm sang, nouveau riche hơn là cộng sản đấu tranh giai cấp.
Ngay những công dân hạng hai bị đô thị hoá bó buộc cũng lạc quan. Đó là những nông dân bị rứt ra khỏi đồng ruộng như lá bị bứt khỏi cành, phá sản vì sưu cao thuế nặng, vật tư nông nghiệp tăng cao mà nông phẩm bị ép giá nên phải bán đứt, cầm cố, sang nhượng mảnh ruộng lại cho người giàu, đổ dồn về thành thị. Họ bị biến thành công dân hạng hai vì không có tờ hộ khẩu. Họ không kiếm được việc làm thường xuyên, trở thành những lao động phổ thông nghèo tay làm hàm nhai. CS gọi là lao động nghèo thành thị và xem là vấn đề lớn về mặt xã hội và trị an. Số người này không nhỏ ở thành thị. Đó là hậu quả tất yếu của thời kỹ nghệ hoá và thời CS mở cửa thấy ở VNCS và Trung Cộng. Dù vậy những lao động phổ thông thành thị nghèo này cũng lạc quan vì dù sao cuộc sống cũng đỡ hơn thời hợp tác hoá nông nghiệp, bình công chấm điểm, đổ mồ hôi trán, rán mồ hôi lưng, một nắng hai sương mà vẫn ăn độn. Nói cho cùng, chạy xe đạp ôm, bán vé số, hủ tiếu gõ, làm mướn, vác thuê, tệ lắm đi xin ăn, miếng cơm thừa cá cặn ở thành thị vẫn ngon hơn bo bo, khoai mì độn!
Còn ở nông thôn cũng lạc quan dù ít hơn. Dù cường hào ác bá đỏ có lộng hành nhưng việc trả ruộng lại cho dân tự canh tác, trồng trọt theo ý mình, phá bỏ hợp tác xã nông nghiệp, cũng giải phóng được sức sản xuất của nông dân, biến VN thành nước xuất cảng gạo hàng thứ hai trên thế giới. Dù vật tư nông nhiệp, lúa gạo còn do Nhà Nước qui định giá ca,û và ngoại thương, xuất cảng gao còn thuộc quyền chuyên độc của Đảng, Nhà Nước, người dân cũng "có ăn" khi làm theo ý mình. Mứùc sống nông thôn dù ít nhưng cũng có tăng.
Về mặt kiểm soát nhân dân, CS Hà nội tuy còn dùng nhiều biện pháp hành chánh hay lập qui hạn chế tự do công dân, tự do tư tưởng. Nhưng biện pháp ngày càng giảm hiệu lực với thời đại Tin học. Tư nhân không được ra báo, không được lập đài phát thanh. Nhưng bức tường lửa CS không ngăn chận được giao lưu tin tức, tư tưởng qua Internet. Công an, cảnh sát mật vụ CS không ngăn chận được những người đối kháng, đối lập chánh trị và người bất mãn tham nhũng nhờ sự hiện diện của các nhà ngoại giao và đặc phái viên thường trú ngoại quốc. Các đài phát thanh nước ngoài nói bằng tiếng Việt liên tục đưa ánh sáng tư do dân chủ và nhân quyền đến từ đảng viên chí phó thường dân Việt. Nếu CS không đổi mới, còn ăn độn, nhà hộ khẩu, người sổ gạo, khó có thể có phong trào đấu tranh của các tôn giáo, nhà trí thức, và đảng viên ly khai , biểu tình chống tham nhũng. Nguy cơ CS Hà nội gọi là diễn biến hoà bình đã đến lúc diễn biến không hoà bình nữa với các cuộc biểu tình, phản đối từ Bắc chí Nam, với cuộc nổi dậy của đồng bàoThượng, và với cuộc đấu tranh liên tôn còn dài dài và nhiều nữa.
Thời Chiến Tranh Lạnh các nước CS phòng ngự bên ngoài bằng bức màn sắt, bên trong bằng kềm kẹp độc tài toàn trị. Xã hội các nước CS được xem là một xã hội bế tắc, tuyệt vọng, và bi quan. Cái nhìn này tỏ ra đúng khi quan sát Liên xô và các nước Đông Aâu CS sau ngày sụp đổ: xã hội điêu tàn, kinh tế kiệt quệ, nhân tâm ly tán, hy vọng tan tành. Số người tuyệt vọng, bế tắc tự tử hay lấy rượu làm quên ở Nga bây giờ vẫn còn tỷ lệ cao. Chính tàn dư của định kiến cũ, chính lối mòn suy nghĩ đóù khiến người ta thắc mắc tại sao nhân dân VN lạc quan với cuộc sống dù còn đang ở dưới chế độ CS.
Nếu chịu khó đối chiếu hiện tình với lịch sử, văn hoá VN, người ta thấy lạc quan ấy rất tự nhiên, dễ hiểu. Lịch sử VN 4000 năm, thì đã 1000 năm Bắc Thuộc, 100 năm Tây thuộc, 2 lần đất nước quân phân. Bị đặt trong một đia lý chánh trị thất lợi, gần một anh khổng lồ bành trướng và tại một ngã tư quốc tế để xâm nhập vào Đông Nam Á, VN ít khi được hưởng độc lập hoà bình lâu. Nhưng mỗi lần bị ngã là mỗi lần đứng dậy trưởng thành hơn, lệ thuộc ngắn ngủi hơn. Nếu bi quan, chắc chắn VN đã thành quận huyện của Trung quốc "từ khuya rồi." Chính nhờ lạc quan mới kiên trì phục quốc qua bao thời kỳ độc lập, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần Lê, Nguyễõn, và Cộng hoà 1, 2. Tính lạc quan đó cũng giúp VN trên đường Nam Tiến, kéo dài dãy giang sơn từ Aûi Nam Quan đến Mủi Cà Mau. Đó là lạc quan truyền thống, lạc quan lịch sử, lạc quan văn hoá.
Lạc quan đó đang biến thành hy vọng vươn lên trong màn đêm CS. Kinh tế chánh trị là môi với răng. Kinh tế đổi chánh trị phải thay. CS không thể nào độc tài toàn trị mãi được. Quân chúng đã giác ngộ vai trò làm chủ của mình. Phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền đang phát triễn. Xu thế thời đại toàn cầu hoá kinh tế và dân chủ đang thịnh hành trên thế giới đang yễm trợ nhân dân VN. Sớm muộn gì nhân dân VN cũng sẽ thấy, thở, và sống tư do, dân chủ. Dân tộc VN vẫn lạc quan trong cuộc sống nhứt Á châu là vì thế. Lạc quan vì sắp thoát khỏi chủ nghĩa CS lỗi thời và thất bại.
Một sự thật hiển nhiên dù người chống CS hết mình cũng thấy, kinh tế VN có phát triển từ khi CS mở cửa cho đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Không chối cãi được rằng đời sống của nhân dân có khấm khá hơn. Lạc quan nhứt là cán bộ, đảng viên lắm chức nhiều quyền lợi đồng nghĩa với nhiều tiền và lắm tiện nghi. Kế đến là số người ăn theo với tiện nghi đầy đủ của đồ ngoại nhập. Nhà cao cửa rộng trên mặt tiền đường, xe hơi đời mới phon phon trên đường phố là của hai hạng người vừa nóiï. Tiếp theo là nhân dân lao động làm cho người nước ngoài và có việc làm chuyên môn cố định. Nhưng đại đa số những người được hưởng lợi ích của cuộc đổi mới kinh tế chánh yếu là những thị dân có hộ khẩu thành thị vì phát triển kinh tế VN chánh yếu là ở thành phố với cơ ngơi và hạ tầng kiến trúc đã có sẵn từ thời VNCH, chớ chưa phát triển mới nhiều. Tư tưởng và thành phần của những người này cũng đã chuyển biến thành tư sản, trưởng giả học làm sang, nouveau riche hơn là cộng sản đấu tranh giai cấp.
Ngay những công dân hạng hai bị đô thị hoá bó buộc cũng lạc quan. Đó là những nông dân bị rứt ra khỏi đồng ruộng như lá bị bứt khỏi cành, phá sản vì sưu cao thuế nặng, vật tư nông nghiệp tăng cao mà nông phẩm bị ép giá nên phải bán đứt, cầm cố, sang nhượng mảnh ruộng lại cho người giàu, đổ dồn về thành thị. Họ bị biến thành công dân hạng hai vì không có tờ hộ khẩu. Họ không kiếm được việc làm thường xuyên, trở thành những lao động phổ thông nghèo tay làm hàm nhai. CS gọi là lao động nghèo thành thị và xem là vấn đề lớn về mặt xã hội và trị an. Số người này không nhỏ ở thành thị. Đó là hậu quả tất yếu của thời kỹ nghệ hoá và thời CS mở cửa thấy ở VNCS và Trung Cộng. Dù vậy những lao động phổ thông thành thị nghèo này cũng lạc quan vì dù sao cuộc sống cũng đỡ hơn thời hợp tác hoá nông nghiệp, bình công chấm điểm, đổ mồ hôi trán, rán mồ hôi lưng, một nắng hai sương mà vẫn ăn độn. Nói cho cùng, chạy xe đạp ôm, bán vé số, hủ tiếu gõ, làm mướn, vác thuê, tệ lắm đi xin ăn, miếng cơm thừa cá cặn ở thành thị vẫn ngon hơn bo bo, khoai mì độn!
Còn ở nông thôn cũng lạc quan dù ít hơn. Dù cường hào ác bá đỏ có lộng hành nhưng việc trả ruộng lại cho dân tự canh tác, trồng trọt theo ý mình, phá bỏ hợp tác xã nông nghiệp, cũng giải phóng được sức sản xuất của nông dân, biến VN thành nước xuất cảng gạo hàng thứ hai trên thế giới. Dù vật tư nông nhiệp, lúa gạo còn do Nhà Nước qui định giá ca,û và ngoại thương, xuất cảng gao còn thuộc quyền chuyên độc của Đảng, Nhà Nước, người dân cũng "có ăn" khi làm theo ý mình. Mứùc sống nông thôn dù ít nhưng cũng có tăng.
Về mặt kiểm soát nhân dân, CS Hà nội tuy còn dùng nhiều biện pháp hành chánh hay lập qui hạn chế tự do công dân, tự do tư tưởng. Nhưng biện pháp ngày càng giảm hiệu lực với thời đại Tin học. Tư nhân không được ra báo, không được lập đài phát thanh. Nhưng bức tường lửa CS không ngăn chận được giao lưu tin tức, tư tưởng qua Internet. Công an, cảnh sát mật vụ CS không ngăn chận được những người đối kháng, đối lập chánh trị và người bất mãn tham nhũng nhờ sự hiện diện của các nhà ngoại giao và đặc phái viên thường trú ngoại quốc. Các đài phát thanh nước ngoài nói bằng tiếng Việt liên tục đưa ánh sáng tư do dân chủ và nhân quyền đến từ đảng viên chí phó thường dân Việt. Nếu CS không đổi mới, còn ăn độn, nhà hộ khẩu, người sổ gạo, khó có thể có phong trào đấu tranh của các tôn giáo, nhà trí thức, và đảng viên ly khai , biểu tình chống tham nhũng. Nguy cơ CS Hà nội gọi là diễn biến hoà bình đã đến lúc diễn biến không hoà bình nữa với các cuộc biểu tình, phản đối từ Bắc chí Nam, với cuộc nổi dậy của đồng bàoThượng, và với cuộc đấu tranh liên tôn còn dài dài và nhiều nữa.
Thời Chiến Tranh Lạnh các nước CS phòng ngự bên ngoài bằng bức màn sắt, bên trong bằng kềm kẹp độc tài toàn trị. Xã hội các nước CS được xem là một xã hội bế tắc, tuyệt vọng, và bi quan. Cái nhìn này tỏ ra đúng khi quan sát Liên xô và các nước Đông Aâu CS sau ngày sụp đổ: xã hội điêu tàn, kinh tế kiệt quệ, nhân tâm ly tán, hy vọng tan tành. Số người tuyệt vọng, bế tắc tự tử hay lấy rượu làm quên ở Nga bây giờ vẫn còn tỷ lệ cao. Chính tàn dư của định kiến cũ, chính lối mòn suy nghĩ đóù khiến người ta thắc mắc tại sao nhân dân VN lạc quan với cuộc sống dù còn đang ở dưới chế độ CS.
Nếu chịu khó đối chiếu hiện tình với lịch sử, văn hoá VN, người ta thấy lạc quan ấy rất tự nhiên, dễ hiểu. Lịch sử VN 4000 năm, thì đã 1000 năm Bắc Thuộc, 100 năm Tây thuộc, 2 lần đất nước quân phân. Bị đặt trong một đia lý chánh trị thất lợi, gần một anh khổng lồ bành trướng và tại một ngã tư quốc tế để xâm nhập vào Đông Nam Á, VN ít khi được hưởng độc lập hoà bình lâu. Nhưng mỗi lần bị ngã là mỗi lần đứng dậy trưởng thành hơn, lệ thuộc ngắn ngủi hơn. Nếu bi quan, chắc chắn VN đã thành quận huyện của Trung quốc "từ khuya rồi." Chính nhờ lạc quan mới kiên trì phục quốc qua bao thời kỳ độc lập, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần Lê, Nguyễõn, và Cộng hoà 1, 2. Tính lạc quan đó cũng giúp VN trên đường Nam Tiến, kéo dài dãy giang sơn từ Aûi Nam Quan đến Mủi Cà Mau. Đó là lạc quan truyền thống, lạc quan lịch sử, lạc quan văn hoá.
Lạc quan đó đang biến thành hy vọng vươn lên trong màn đêm CS. Kinh tế chánh trị là môi với răng. Kinh tế đổi chánh trị phải thay. CS không thể nào độc tài toàn trị mãi được. Quân chúng đã giác ngộ vai trò làm chủ của mình. Phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền đang phát triễn. Xu thế thời đại toàn cầu hoá kinh tế và dân chủ đang thịnh hành trên thế giới đang yễm trợ nhân dân VN. Sớm muộn gì nhân dân VN cũng sẽ thấy, thở, và sống tư do, dân chủ. Dân tộc VN vẫn lạc quan trong cuộc sống nhứt Á châu là vì thế. Lạc quan vì sắp thoát khỏi chủ nghĩa CS lỗi thời và thất bại.
Gửi ý kiến của bạn