Đã vào tù là tất nhiên khẩu phần ăn phải giảm, phải ít, phải không ngon. Do vậy, khi tù nhân tuyệt thực, đó là lấy chính sinh mạng của mình ra để đối thoại. Đó là đường cũng, khi muốn tiếng nói của mình được lắng nghe.
Khi đài RFA đăng bản tin hôm 8-8-2013 tựa đề “Tù nhân trại Xuyên Mộc tuyệt thực phản đối việc bị cùm,” trang web Bauxite Việt Nam đăng lại và có lời giới thiệu như sau:
“Sau Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày… liên tiếp ở nhiều nhà tù khác nhau, các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm phải liều mạng sống của mình qua hình thức tuyệt thực để đòi quyền sống chính đáng được pháp luật thừa nhận. Phong trào tuyệt thực tập thể lan rộng sẽ là một vết nhơ không thể gột rửa trong hồ sơ nhân quyền của Việt Nam, quốc gia đang ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Không thể hy sinh bộ mặt nhân quyền của chế độ để chiều lòng một số cai tù ác ôn muốn mặc sức thị uy. Ủy ban Tư pháp Quốc hội cần có ngay biện pháp hữu hiệu giám sát thực trạng các nhà tù, không thể để ngành Công an tự tung tự tác trong lãnh địa bí mật của mình với khả năng thông đồng hoặc dung túng rất cao của ngành Kiểm sát. Đã đến lúc phải thành lập một tổ chức quần chúng độc lập ít ra cũng không thua “Uỷ ban Cải thiện Chế độ Lao tù” mà cái chế độ bị “Bên thắng cuộc” khinh rẻ gọi là “ngụy quyền” Sài Gòn đã cho phép hoạt động ngay trong thời chiến. Bauxite Việt Nam.” (hết trích)
Thế đấy. Chúng ta có thể lập lại.
Câu hỏi này cần nêu lên cho chế độ Hà Nội:
Tại sao chế độ Sài Gòn cho phép hoạt động một tổ chức quần chúng độc lập có tên là Uỷ ban Cải thiện Chế độ Lao tù... mà nhà nước thông nhất hiện nay vẫn không hề có một cái gì tương tự?
Nhà văn Phạm Thị Hoài, trong bài viết tựa đề “Đường sữa trong tù” trên mạng pro&contra, và được Bauxite Việt Nam đăng lại hôm 6-8-2013, cũng kể một phần chuyện xưa.
Xin trích như sau:
“Truyền thông nhà nước lại vừa trưng ra danh sách thực phẩm mà gia đình gửi vào cho người tù Nguyễn Văn Hải Điếu Cày để kết luận rằng ông dựng “màn kịch tuyệt thực”. Cách đây không lâu, nghe ông Cao Trọng Oánh phụ trách Tổng cục 8 cho biết rằng ông Cù Huy Hà Vũ “sẽ không chết, trong tù đường sữa rất nhiều”, tôi bất giác nhớ đến câu chuyện ly sữa của nhà văn Nhã Ca [1].
Bà Nhã Ca, có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa”, bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Một trong những người trực tiếp thẩm cung bà là họa sĩ Ớt, tức nhà báo Huỳnh Bá Thành, sau này là Tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau mấy tháng biệt giam trong cát-sô vì “ngoan cố” không chịu nhận tội và không chịu tố giác người khác, sức khỏe bà suy kiệt. Một cán bộ thuộc Sở Bảo vệ Văn hóa Chính trị sai nhân viên đem đến cho bà một ly sữạ Sữa ấy không phải của nhà tù cấp, mà do con bà gửi vàọ Ông ta cho biết lí do bà được uống sữa: “Chúng tôi đã cứu xét xong trường hợp của chị. Tôi được lãnh đạo cử tới chỉ để giúp đỡ chị. Từ nay chị sẽ có cơ hội được bồi dưỡng để hồi sức. Đợt làm việc này có thể là lần chót, để giúp chị an tâm tư tưởng. Chị Nhã Ca, chị uống sữa đi chứ.”
Sáng nào nhân vật này cũng hộ tống bà từ phòng giam nữ, diễu qua những dãy phòng giam tập thể khác đến lớp học về nọc độc của văn hóa Mỹ ngụy và chính sách nhân đạo của cách mạng. Theo sau là một nhân viên cung kính bưng ly sữa bốc khói. Bà không chịu nổi đám rước sữa trình diễn lòng nhân đạo hay đòn phép ơn huệ ấỵ Xin nhắc lại, sữa ấy không do nhà tù cấp, mà là của gia đình gửi vào...” (hết trích)
Phần chú thích số (1) trong bài của nhà văn Phạm Thị Hoài là: [1] Nhã Ca. Hồi kí Một người mất ngày tháng, California 1991...
Một cách kết bài của nhà văn Phạm Thị Hoài cũng độc đáo theo kiểu riêng:
“...Luật pháp Việt Nam trên giấy trông cũng đẹp như ở nhiều nơi khác, nhưng nó chết ngay trong văn bản để sống bằng những chỉ dẫn siêu văn bản. Như chỉ dẫn “muốn giết, đã giết rồi.”...”(hết trích)
Hãy nhớ rằng, nhà tù cộng sản hiện nay đã được đặt trong một khung xã hội khác ngày xưa.
Thời mấy thập niên trước, chưa từng có Internet, do vậy không có mạng xã hội nào (như Facebook), và thời đó cũng không hề có điện thoại di động (chớ đừng nói gì tới Iphone khi có thể chụp hình và gửi lên Internet liền trong vài giây đồng hồ sau.
Nhưng tuyệt cùng đau khổ của những người tù năm xưa là một bối cảnh xã hội khác: đất nước vừa thống nhất, những người Miền Nam bị những người miền Bắc miệt thị là theo Mỹ, là đủ thứ muốn chụp mũ gì thì chụp.
Trong bối cảnh đó, sự cô đơn về phương diện xã hội của những ngừơi tù năm xưa lớn lao và sắc bén vô cùng.
Hãy nghĩ rằng anh Cù Huy Hà Vũ, anh Điếu Cầy, anh Trần Huỳnh Duy Thức đang ngồi tù... nhưng lòng họ ấm vô cùng, vì biết rằng gần như tất cả những người có biết tin họ đều đứng về phía họ, đều bênh vực chính nghĩa của họ.
Thời các nhà văn Miền Nam bị đầy đi tù sau 1975 bi thảm hơn, họ cô đơn hơn, và họ biết rằng những ngườid ân Miền Bắc không nhìn ra được những sự thực mà nhuũng người cầm bút Miền Nam có cơ hôị đọc, có cơ hội thấy, có cơ hô chứng kiến, và thậmc hí có cơ hội đã từng phỏng vấn một số ngừơi liên hệ tới cuộc chiến Quốc-Cộng, cuộc chiến hai miền, cuộc chiến ý thức hệ, mà nhiều sử gia đã gọi theo nhiều cách nhìn riêng.
Cũng nên kể rằng, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đã tuyệt thực ở Xuyên mộc, sau đó bị ép phải ăn, và rồi đã chết.
Cũng nên kể rằng, nhà báo Như Phong đã từng tuyệt thực 2 tháng.
Cũng nên kể rằng họa sĩ Choé bị cùm chung ngăn biệt giam với xác chết ở Gia Trung.
Cũng nên kể rằng nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và nhà văn Nguyễn Sỹ Tế đã bị cùm, đã bị đánh dòng rã cả năm trời.
Nhưng thời cuối thập niên 1970s và đầu thập niên 1980s thì không có dư luận nào được đánh động.
Đó là những mảng lịch sử sau này đã may mắn được kể lại bởi những người sống sót.
Và may mắn, chúng ta thời này đã có điện thoại di động và Internet.
Nhưng cuộc tuyệt thực nào cũng đau đớn như nhau: lấy sinh mạng của mình để nói lên điều cần nói.
Khi đài RFA đăng bản tin hôm 8-8-2013 tựa đề “Tù nhân trại Xuyên Mộc tuyệt thực phản đối việc bị cùm,” trang web Bauxite Việt Nam đăng lại và có lời giới thiệu như sau:
“Sau Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày… liên tiếp ở nhiều nhà tù khác nhau, các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm phải liều mạng sống của mình qua hình thức tuyệt thực để đòi quyền sống chính đáng được pháp luật thừa nhận. Phong trào tuyệt thực tập thể lan rộng sẽ là một vết nhơ không thể gột rửa trong hồ sơ nhân quyền của Việt Nam, quốc gia đang ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Không thể hy sinh bộ mặt nhân quyền của chế độ để chiều lòng một số cai tù ác ôn muốn mặc sức thị uy. Ủy ban Tư pháp Quốc hội cần có ngay biện pháp hữu hiệu giám sát thực trạng các nhà tù, không thể để ngành Công an tự tung tự tác trong lãnh địa bí mật của mình với khả năng thông đồng hoặc dung túng rất cao của ngành Kiểm sát. Đã đến lúc phải thành lập một tổ chức quần chúng độc lập ít ra cũng không thua “Uỷ ban Cải thiện Chế độ Lao tù” mà cái chế độ bị “Bên thắng cuộc” khinh rẻ gọi là “ngụy quyền” Sài Gòn đã cho phép hoạt động ngay trong thời chiến. Bauxite Việt Nam.” (hết trích)
Thế đấy. Chúng ta có thể lập lại.
Câu hỏi này cần nêu lên cho chế độ Hà Nội:
Tại sao chế độ Sài Gòn cho phép hoạt động một tổ chức quần chúng độc lập có tên là Uỷ ban Cải thiện Chế độ Lao tù... mà nhà nước thông nhất hiện nay vẫn không hề có một cái gì tương tự?
Nhà văn Phạm Thị Hoài, trong bài viết tựa đề “Đường sữa trong tù” trên mạng pro&contra, và được Bauxite Việt Nam đăng lại hôm 6-8-2013, cũng kể một phần chuyện xưa.
Xin trích như sau:
“Truyền thông nhà nước lại vừa trưng ra danh sách thực phẩm mà gia đình gửi vào cho người tù Nguyễn Văn Hải Điếu Cày để kết luận rằng ông dựng “màn kịch tuyệt thực”. Cách đây không lâu, nghe ông Cao Trọng Oánh phụ trách Tổng cục 8 cho biết rằng ông Cù Huy Hà Vũ “sẽ không chết, trong tù đường sữa rất nhiều”, tôi bất giác nhớ đến câu chuyện ly sữa của nhà văn Nhã Ca [1].
Bà Nhã Ca, có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa”, bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Một trong những người trực tiếp thẩm cung bà là họa sĩ Ớt, tức nhà báo Huỳnh Bá Thành, sau này là Tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau mấy tháng biệt giam trong cát-sô vì “ngoan cố” không chịu nhận tội và không chịu tố giác người khác, sức khỏe bà suy kiệt. Một cán bộ thuộc Sở Bảo vệ Văn hóa Chính trị sai nhân viên đem đến cho bà một ly sữạ Sữa ấy không phải của nhà tù cấp, mà do con bà gửi vàọ Ông ta cho biết lí do bà được uống sữa: “Chúng tôi đã cứu xét xong trường hợp của chị. Tôi được lãnh đạo cử tới chỉ để giúp đỡ chị. Từ nay chị sẽ có cơ hội được bồi dưỡng để hồi sức. Đợt làm việc này có thể là lần chót, để giúp chị an tâm tư tưởng. Chị Nhã Ca, chị uống sữa đi chứ.”
Sáng nào nhân vật này cũng hộ tống bà từ phòng giam nữ, diễu qua những dãy phòng giam tập thể khác đến lớp học về nọc độc của văn hóa Mỹ ngụy và chính sách nhân đạo của cách mạng. Theo sau là một nhân viên cung kính bưng ly sữa bốc khói. Bà không chịu nổi đám rước sữa trình diễn lòng nhân đạo hay đòn phép ơn huệ ấỵ Xin nhắc lại, sữa ấy không do nhà tù cấp, mà là của gia đình gửi vào...” (hết trích)
Phần chú thích số (1) trong bài của nhà văn Phạm Thị Hoài là: [1] Nhã Ca. Hồi kí Một người mất ngày tháng, California 1991...
Một cách kết bài của nhà văn Phạm Thị Hoài cũng độc đáo theo kiểu riêng:
“...Luật pháp Việt Nam trên giấy trông cũng đẹp như ở nhiều nơi khác, nhưng nó chết ngay trong văn bản để sống bằng những chỉ dẫn siêu văn bản. Như chỉ dẫn “muốn giết, đã giết rồi.”...”(hết trích)
Hãy nhớ rằng, nhà tù cộng sản hiện nay đã được đặt trong một khung xã hội khác ngày xưa.
Thời mấy thập niên trước, chưa từng có Internet, do vậy không có mạng xã hội nào (như Facebook), và thời đó cũng không hề có điện thoại di động (chớ đừng nói gì tới Iphone khi có thể chụp hình và gửi lên Internet liền trong vài giây đồng hồ sau.
Nhưng tuyệt cùng đau khổ của những người tù năm xưa là một bối cảnh xã hội khác: đất nước vừa thống nhất, những người Miền Nam bị những người miền Bắc miệt thị là theo Mỹ, là đủ thứ muốn chụp mũ gì thì chụp.
Trong bối cảnh đó, sự cô đơn về phương diện xã hội của những ngừơi tù năm xưa lớn lao và sắc bén vô cùng.
Hãy nghĩ rằng anh Cù Huy Hà Vũ, anh Điếu Cầy, anh Trần Huỳnh Duy Thức đang ngồi tù... nhưng lòng họ ấm vô cùng, vì biết rằng gần như tất cả những người có biết tin họ đều đứng về phía họ, đều bênh vực chính nghĩa của họ.
Thời các nhà văn Miền Nam bị đầy đi tù sau 1975 bi thảm hơn, họ cô đơn hơn, và họ biết rằng những ngườid ân Miền Bắc không nhìn ra được những sự thực mà nhuũng người cầm bút Miền Nam có cơ hôị đọc, có cơ hội thấy, có cơ hô chứng kiến, và thậmc hí có cơ hội đã từng phỏng vấn một số ngừơi liên hệ tới cuộc chiến Quốc-Cộng, cuộc chiến hai miền, cuộc chiến ý thức hệ, mà nhiều sử gia đã gọi theo nhiều cách nhìn riêng.
Cũng nên kể rằng, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đã tuyệt thực ở Xuyên mộc, sau đó bị ép phải ăn, và rồi đã chết.
Cũng nên kể rằng, nhà báo Như Phong đã từng tuyệt thực 2 tháng.
Cũng nên kể rằng họa sĩ Choé bị cùm chung ngăn biệt giam với xác chết ở Gia Trung.
Cũng nên kể rằng nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và nhà văn Nguyễn Sỹ Tế đã bị cùm, đã bị đánh dòng rã cả năm trời.
Nhưng thời cuối thập niên 1970s và đầu thập niên 1980s thì không có dư luận nào được đánh động.
Đó là những mảng lịch sử sau này đã may mắn được kể lại bởi những người sống sót.
Và may mắn, chúng ta thời này đã có điện thoại di động và Internet.
Nhưng cuộc tuyệt thực nào cũng đau đớn như nhau: lấy sinh mạng của mình để nói lên điều cần nói.
Gửi ý kiến của bạn