LTS- Như đã thông báo trong số trước, trong tháng 7/2001 này, VB trân trọng giới thiệu đến bạn đọc những phân tích và ghi nhận của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, về một số sự kiện chính xảy ra trong cuộc chiến VN. Phần này được trình bày tổng lược dựa theo hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản và do dịch giả Duy Nguyên chuyển dịch sang Việt ngữ và đồng ý cho VB sử dụng để làm tài biên soạn. Trong tiến trình tổng lược, VN có bổ sung và ghi chú đối chiếu với các tài liệu của Khối Quân sử Phòng 5/Tổng Tham Mưu QL.VNCH, tài liệu của cựu Đại tướng Westmoreland và các tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ. Trong số báo Chủ nhật này, VB tổng lược tiếp về tiến trình hòa đàm theo ghi nhận của Tổng Tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên.
* Lược ghi các phần đã trình bày
Ngày 31 tháng Ba năm 1968, Tổng thống Johnson đưa ra sáng kiến hòa bình và tạm thời ngưng oanh tạc miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 10 tháng Năm 1968 giữa đại diện Hoa Kỳ là ông W.Averell Harriman và đại diện CSBV là Xuân Thủy. Kết quả đàm phàn không có kết quả. Sau hơn một năm bàn cãi, thương thảo, các cuộc hội đàm vẫn không đạt được kết quả cụ thể. Ngày 7 tháng Năm năm 1969, như là một phần của tiến trình hòa bình, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đưa ra đề nghị sáu điểm. Một tháng sau, “Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc” (một tổ chức trá hình của CSBV tại miền Nam) đưa ra đề nghị 10 điểm. Những điểm dị biệt mấu chốt là:
1.- VNCH đòi lực lượng CS phải rút về Bắc thì ngược lại Cộng sản đòi Hoa Kỳ và lực lượng đồng minh phải rút ra khỏi miền Nam vô điều kiện.
2.- VNCH chủ trương hòa giải dân tộc thì Cộng sản đòi lập hiến pháp mới và một chính phủ liên hiệp.
3.-Cả hai bên đều kêu gọi có sự kiểm soát quốc tế, nhưng Việt Nam Cộng Hòa muốn quốc tế bảo đảm rằng trong tương lai CS không mở những cuộc tấn công miền Nam, trong khi Cộng sản lại đòi Hoa Kỳ và Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam dưới sự giám sát của CS.
Ngày 20-3-1972, Hoa Kỳ tỏ ý muốn tái tục cuộc hòa đàm. Ban đầu CSBV đồng ý nhưng sau đó đòi hoãn lại cho đến ngày 15 tháng Tư. Hoa Kỳ ấn định lại ngày 24 tháng Tư thì CSBV không phúc đáp. Mãi đến 31 tháng 3 CSBV mới cho biết. Trong khi đó thì CQ đã mở cuộc tổng tấn công. Ngày 2 tháng 5/1972, cố vấn Tổng thống Nixon là ông Kissinger đã gặp đại diện CSBV là Lê Đức Thọ để yêu cầu CSBV chấp thuận ngưng bắn, thả tù binh Mỹ, Hoa Kỳ sẽ rút quân trong vòng 4 tháng. Cuộc hội đàm nất thành vì Lê Đức Thọ một mực đòi loại bỏ chính phủ VNCH để thành lập chính phủ liên hiệp.
* Ông Kissinger đến Sài Gòn và Paris bàn ngưng bắn
Ngày 16 tháng Tám 1972, ông Kissinger đến Sài Gòn gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thông báo quyết tâm của Tổng thống Nixon về giải pháp cho cuộc chiến Việt Nam.
Trong tháng 9/1972, ông Kissinger và Lê Đúc Thọ gặp nhau tại Paris (Ba Lê) hai lần để thương thảo. Vào thượng tuần tháng 10/1972, được Tổng thống Nixon chấp thuận, hai ngày 9 và 10 tháng 10/1972, Kissinger gặp Lê Đức Thọ mỗi ngày 16 tiếng đồng hồ để bàn bạc.
Những dị biệt dần dần được giảm thiểu cho đến khi cả Kissinger và Thọ đồng ý được một thời biểu như sau: ngày 18 tháng 10/1972, Hoa Kỳ chấm dứt ném bom và thả mìn tại miền Bắc. Ngày 20 tháng Mười hiệp định sơ bộ sẽ được Kissinger và Thọ ký tại Hà Nội, sau khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận.
Văn bản thỏa thuận sau cùng sẽ được bốn bên ký kết tại Ba Lê ngày 26 tháng 10/1972. Đó là Hoa Kỳ, Cộng sản Bắc Việt, Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản tại miền Nam. Cuộc ngừng bắn có hiệu lực bắt đầu vào ngày 27 tháng 10/1972.
Cả hai bên đều khẳng định rằng muốn có ngừng bắn trước khi có cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vì Cộng sản Bắc Việt thừa biết rằng một khi Tổng thống Nixon đắc cử thì ông sẽ không nhượng bộ gì thêm nữa. Đại diện Việt Nam Cộng Hòa tại Hội đàm Ba Lê nhận thấy chi tiết trong văn bản thỏa thuận dùng toàn những từ ngữ thiếu rõ ràng, nội dung văn bản và thời biểu được trao đổi giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt cũng không được thông báo để biết.
Kisinger đinh ninh rằng ông ta thừa sức thuyết phục chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận một cách dễ dàng. Tuy nhiên một sự kiện nhỏ đã xảy ra làm đình trệ việc ký kết: Ngày 11 tháng 10/1972, tòa Đại sứ Pháp tại Hà Nội bị trúng bom của phi cơ Hoa Kỳ. Viên đại sứ Pháp Pierre Susini bị thương nặng. Nhưng đến khi Lê Đức Thọ phàn nàn với Kissinger thì tất cả các cuộc oanh tạc đã chấm dứt. Cuộc nói chuyện được tiếp tục và định lại thời biểu mới: ngày 21 tháng 10 Hoa Kỳ ngưng oanh tạc, ngày 22 tháng 10/1972 hiệp định sơ bộ sẽ ký tại Hà Nội và ngày 30 tháng 10 sẽ chính thức ký tại Ba Lê.
Ngày 16 tháng 10/1972, Kissinger trở lại Ba Lê và sau đó hội đàm với Xuân Thủy (trưởng phái đoàn CSBV). Lúc đó, Lê Đức Thọ đã về Hà Nội. Cùng đi theo Kissinger đến Ba Lê lần này có 2 khuôn mặt mới: William Sullivan và George Aldrich. Cùng với CSBV, các người này lược lại văn bản hiệp định từng câu một, từng từ ngữ một. Một trong 2 vấn đề cần bàn cãi lại nghiêm chỉnh và gay go là vũ khí quân trang quân dụng thay thế cho những số bị hư hỏng hay mất mát. CS Bắc Việt thì chỉ muốn có sự kiểm soát chiếu lệ, còn Hoa Kỳ thì muốn kiểm soát thật chặt chẽ. Vấn đề thứ hai là phóng thích tù chính trị. Cộng sản móc các tù binh chính trị với các tù binh Hoa Kỳ. Giằng co mãi vẫn chưa giải quyết được, vì đòi hỏi của CS không thể chấp nhận được, nên cuối cùng đi đến bế tắc. Tuy nhiên với thời biểu đã định trong đầu, Kissinger rời Ba Lê đến Sài Gòn. Kisisinger đến Sài Gòn ngày 18 tháng 10/1972 và dự tính lưu lại 2 ngày.