Diễn văn Nobel 1996
Wistawa Szymborska
2
Trên tơi cĩ nĩi tới hứng khởi. Những nhà thơ đương thời thường trả lời theo kiểu tránh né, khi được hỏi, nĩ là cái chi vậy, hoặc thực sự cĩ cái gọi là hứng khởi. Khơng phải là chúng ta khơng hề biết tới cú huých, từ xĩ xỉnh nào ở bên trong con người chúng ta, đột nhiên bật ra, và phước lành mà nĩ mang lại. Nhưng đâu cĩ dễ dàng gì, khi phải giải thích một điều gì cho một người nào đĩ, rằng, chính tơi đây, cũng khơng hiểu.
Khi bị hỏi, tơi cũng nĩi quanh nĩi quẩn. Nhưng tơi trả lời như thế này: hứng khởi khơng phải là một thứ đặc quyền, chỉ dành cho nhà thơ, hay nghệ sĩ. Và cĩ, và sẽ luơn luơn cĩ, một số người mà hứng khởi mị tới thăm viếng. Số người này, đủ thứ trong bàn dân thiên hạ, những con người dám chọn điều mà họ dám chọn, và sau đĩ, làm cơng việc của mình, với tình yêu và sự tưởng tưọng. Họ cĩ thể là bác sĩ, thầy giáo, người giữ vườn – và tơi cĩ thể kể hàng trăm thứ nghề nghiệp khác. Việc làm của họ trở nên một cuộc phiêu lưu liên luỷ, chừng nào mà họ cịn loay hoay tìm cho ra, khám phá cho bằng được, những thách đố mới mẻ ở trong cơng việc làm của họ. Khĩ khăn, trở ngại chẳng hề làm họ hết tị mị. Cả chục, cả trăm câu hỏi mới mẻ bật ra từ bất cứ một vấn đề mà họ vướng vào và cố giải đáp. Bất cứ hứng khởi chi chi, là đều đẻ ra từ một thường xuyên, liên luỷ: “Tơi khơng biết”.
Những người như thế, thật cũng khơng cĩ nhiều. Hầu hết cư dân trên trái đất này, đều làm việc theo kiểu cho hết, cho qua thời giờ, cho đời mình cứ thế trơi đi. Họ làm việc bởi vì họ phải làm. Họ khơng bập vào nĩ, do đam mê; những hồn cảnh, những tình huống trong đời họ, đã chọn việc làm đĩ cho họ. Việc làm khơng yêu thương, thích thú; việc làm chỉ làm buồn, làm chán; việc làm được đánh giá qua ánh mắt thèm thuồng của những người khác, của những người khơng làm sao cĩ được, cho dù chán nản, cho dù buồn phiền tới cỡ nào: đây đúng là một trong những nỗi khốn khổ, khốn nạn nhất nhất, của con người. Và ngĩ ngược ngĩ xuơi, ngĩ những thế kỷ sắp mị tới, cũng chẳng lộ ra một tín hiệu cho thấy, sẽ cĩ sự thay đổi, rằng sự tình sẽ khấm khá hơn.
Và , mặc dù cĩ thể khơng ban những nhà thơ độc quyền hứng khởi, tơi vẫn xếp họ vào loại người được tuyển chọn, và cĩ tên là mhững con người đáng yêu của Vận Hội [Fortune].
Tới đây, chắc là cĩ người tỏ ra nghi ngờ. Bởi vì đủ thứ nhà tra tấn, nhà độc tài, nhà cuồng tín, và những tên mị dân tranh thủ, chiếm đoạt quyền lực bằng đủ thứ hơ hào, đủ thứ khẩu hiệu, họ cũng thưởng thức việc làm của họ, và họ cũng hồn tất nhiệm vụ của họ, với hân hoan, với nhiệt tình. Vâng, đúng như vậy, nhưng đám này, họ đều “biết”. Họ biết, và bất cứ là biết thứ chi chi, như vậy là đủ, cho họ, một lần và tất cả. Họ đâu cần tìm hiểu về bất cứ chuyện chi khác, bởi vì, một khi làm như vậy, là giảm đi sức mạnh của những luận cứ của họ. Và bất cứ một tri thức nào mà khơng dẫn tới những câu hỏi mới, đều là đồ vứt đi, đều khĩ thọ, vừa lĩ ra là ngỏm liền: nĩ thất bại, trong cái việc làm, là gìn giữ, cưu mang, ấp ủ, ngọn lửa đời, hơi nĩng đời. Trong những trường hợp thái quá - cũng đầy rẫy trong lịch sử nhân loại, từ cổ cho tới kim – nĩ đúng là một lưỡi dao, kề ngay cổ họng xã hội.
Chính vì lý do đĩ mà tơi đánh giá thật cao, câu nĩi ngắn, “Tơi khơng biết”. Tuy cụt thun lủn như vậy, nhưng nĩ bay bằng đơi cánh đại bàng. Nĩ mở rộng những cuộc đời của chúng ta, và ơm trọn những khơng gian ở bên trong chúng ta cũng như bên ngồi, những khơng gian mà Trái Đất nhỏ bé của chúng ta treo tịng teng trong đĩ. Nếu Isaac Newton khơng nĩi với chính mình, “Tơi khơng biết,” thì những trái táo trong khu vườn nho nhỏ của ơng cứ thế rớt đánh bịch xuống mặt đất như những cục mưa đá, và may lắm, sẽ xẩy ra trường hợp như vầy: ơng ta cúi xuống, nhặt chúng lên, và đợp chúng một cách thật là ngon lành! Nếu người đồng hương của tơi, là Marie Sklodowska-Curie, chẳng bao giờ nĩi với chính bà, “Tơi khơng biết”, cĩ thể bà sẽ học hành xong xuơi, và làm một bà giáo dậy mơn hĩa học, tại một ngơi trường tư dành riêng cho mấy cơ con gái nhà lành, hoặc đi hết đời mình bằng một nghề hồn tồn đáng kính trọng khác. Nhưng bà cứ tiếp tục nĩi với bà, “Tơi khơng biết”, và những tiếng nĩi đĩ dẫn bà, khơng chỉ một, mà hai lần, tới Stockholm, nơi những đầu ĩc khơng chịu nghỉ, khơng chịu ngưng tìm tịi, đơi khi được thưởng cơng bằng Giải Nobel.
Những nhà thơ, nếu là thứ thiệt, cũng phải lập đi lập lại hồi, bùa chú trên, “Tơi khơng biết”. Mỗi bài thơ là một cố gắng nhằm trả lời câu hỏi đĩ, nhưng ngay khi giai đoạn chĩt vừa chạm mặt giấy,nhà thơ tính reo lên hài lịng, là anh ta bắt đầu băn khoăn, ngần ngại, bắt đầu nhận ra rằng, câu trả lời đặc thù của anh ta đĩ, chỉ là đồ vá víu, tạm thời, khơng thể nào làm được cái việc cất cánh kia. Thế là nhà thơ lại tiếp tục thử nghiệm, tìm tịi, và chẳng chĩng thì chầy, những kết quả của một chuỗi những tự hài lịng với chính mình như thế đĩ, chúng được nhà thơ kẹp vào với nhau, cùng với cái kẹp giấy khổng lồ, của nhà sử văn, và được gọi là "tác phẩm" của anh ta.
NQT
tanvien.net
Wistawa Szymborska
2
Trên tơi cĩ nĩi tới hứng khởi. Những nhà thơ đương thời thường trả lời theo kiểu tránh né, khi được hỏi, nĩ là cái chi vậy, hoặc thực sự cĩ cái gọi là hứng khởi. Khơng phải là chúng ta khơng hề biết tới cú huých, từ xĩ xỉnh nào ở bên trong con người chúng ta, đột nhiên bật ra, và phước lành mà nĩ mang lại. Nhưng đâu cĩ dễ dàng gì, khi phải giải thích một điều gì cho một người nào đĩ, rằng, chính tơi đây, cũng khơng hiểu.
Khi bị hỏi, tơi cũng nĩi quanh nĩi quẩn. Nhưng tơi trả lời như thế này: hứng khởi khơng phải là một thứ đặc quyền, chỉ dành cho nhà thơ, hay nghệ sĩ. Và cĩ, và sẽ luơn luơn cĩ, một số người mà hứng khởi mị tới thăm viếng. Số người này, đủ thứ trong bàn dân thiên hạ, những con người dám chọn điều mà họ dám chọn, và sau đĩ, làm cơng việc của mình, với tình yêu và sự tưởng tưọng. Họ cĩ thể là bác sĩ, thầy giáo, người giữ vườn – và tơi cĩ thể kể hàng trăm thứ nghề nghiệp khác. Việc làm của họ trở nên một cuộc phiêu lưu liên luỷ, chừng nào mà họ cịn loay hoay tìm cho ra, khám phá cho bằng được, những thách đố mới mẻ ở trong cơng việc làm của họ. Khĩ khăn, trở ngại chẳng hề làm họ hết tị mị. Cả chục, cả trăm câu hỏi mới mẻ bật ra từ bất cứ một vấn đề mà họ vướng vào và cố giải đáp. Bất cứ hứng khởi chi chi, là đều đẻ ra từ một thường xuyên, liên luỷ: “Tơi khơng biết”.
Những người như thế, thật cũng khơng cĩ nhiều. Hầu hết cư dân trên trái đất này, đều làm việc theo kiểu cho hết, cho qua thời giờ, cho đời mình cứ thế trơi đi. Họ làm việc bởi vì họ phải làm. Họ khơng bập vào nĩ, do đam mê; những hồn cảnh, những tình huống trong đời họ, đã chọn việc làm đĩ cho họ. Việc làm khơng yêu thương, thích thú; việc làm chỉ làm buồn, làm chán; việc làm được đánh giá qua ánh mắt thèm thuồng của những người khác, của những người khơng làm sao cĩ được, cho dù chán nản, cho dù buồn phiền tới cỡ nào: đây đúng là một trong những nỗi khốn khổ, khốn nạn nhất nhất, của con người. Và ngĩ ngược ngĩ xuơi, ngĩ những thế kỷ sắp mị tới, cũng chẳng lộ ra một tín hiệu cho thấy, sẽ cĩ sự thay đổi, rằng sự tình sẽ khấm khá hơn.
Và , mặc dù cĩ thể khơng ban những nhà thơ độc quyền hứng khởi, tơi vẫn xếp họ vào loại người được tuyển chọn, và cĩ tên là mhững con người đáng yêu của Vận Hội [Fortune].
Tới đây, chắc là cĩ người tỏ ra nghi ngờ. Bởi vì đủ thứ nhà tra tấn, nhà độc tài, nhà cuồng tín, và những tên mị dân tranh thủ, chiếm đoạt quyền lực bằng đủ thứ hơ hào, đủ thứ khẩu hiệu, họ cũng thưởng thức việc làm của họ, và họ cũng hồn tất nhiệm vụ của họ, với hân hoan, với nhiệt tình. Vâng, đúng như vậy, nhưng đám này, họ đều “biết”. Họ biết, và bất cứ là biết thứ chi chi, như vậy là đủ, cho họ, một lần và tất cả. Họ đâu cần tìm hiểu về bất cứ chuyện chi khác, bởi vì, một khi làm như vậy, là giảm đi sức mạnh của những luận cứ của họ. Và bất cứ một tri thức nào mà khơng dẫn tới những câu hỏi mới, đều là đồ vứt đi, đều khĩ thọ, vừa lĩ ra là ngỏm liền: nĩ thất bại, trong cái việc làm, là gìn giữ, cưu mang, ấp ủ, ngọn lửa đời, hơi nĩng đời. Trong những trường hợp thái quá - cũng đầy rẫy trong lịch sử nhân loại, từ cổ cho tới kim – nĩ đúng là một lưỡi dao, kề ngay cổ họng xã hội.
Chính vì lý do đĩ mà tơi đánh giá thật cao, câu nĩi ngắn, “Tơi khơng biết”. Tuy cụt thun lủn như vậy, nhưng nĩ bay bằng đơi cánh đại bàng. Nĩ mở rộng những cuộc đời của chúng ta, và ơm trọn những khơng gian ở bên trong chúng ta cũng như bên ngồi, những khơng gian mà Trái Đất nhỏ bé của chúng ta treo tịng teng trong đĩ. Nếu Isaac Newton khơng nĩi với chính mình, “Tơi khơng biết,” thì những trái táo trong khu vườn nho nhỏ của ơng cứ thế rớt đánh bịch xuống mặt đất như những cục mưa đá, và may lắm, sẽ xẩy ra trường hợp như vầy: ơng ta cúi xuống, nhặt chúng lên, và đợp chúng một cách thật là ngon lành! Nếu người đồng hương của tơi, là Marie Sklodowska-Curie, chẳng bao giờ nĩi với chính bà, “Tơi khơng biết”, cĩ thể bà sẽ học hành xong xuơi, và làm một bà giáo dậy mơn hĩa học, tại một ngơi trường tư dành riêng cho mấy cơ con gái nhà lành, hoặc đi hết đời mình bằng một nghề hồn tồn đáng kính trọng khác. Nhưng bà cứ tiếp tục nĩi với bà, “Tơi khơng biết”, và những tiếng nĩi đĩ dẫn bà, khơng chỉ một, mà hai lần, tới Stockholm, nơi những đầu ĩc khơng chịu nghỉ, khơng chịu ngưng tìm tịi, đơi khi được thưởng cơng bằng Giải Nobel.
Những nhà thơ, nếu là thứ thiệt, cũng phải lập đi lập lại hồi, bùa chú trên, “Tơi khơng biết”. Mỗi bài thơ là một cố gắng nhằm trả lời câu hỏi đĩ, nhưng ngay khi giai đoạn chĩt vừa chạm mặt giấy,nhà thơ tính reo lên hài lịng, là anh ta bắt đầu băn khoăn, ngần ngại, bắt đầu nhận ra rằng, câu trả lời đặc thù của anh ta đĩ, chỉ là đồ vá víu, tạm thời, khơng thể nào làm được cái việc cất cánh kia. Thế là nhà thơ lại tiếp tục thử nghiệm, tìm tịi, và chẳng chĩng thì chầy, những kết quả của một chuỗi những tự hài lịng với chính mình như thế đĩ, chúng được nhà thơ kẹp vào với nhau, cùng với cái kẹp giấy khổng lồ, của nhà sử văn, và được gọi là "tác phẩm" của anh ta.
NQT
tanvien.net
Gửi ý kiến của bạn