Vương Hồng Anh tổng hợp
Kỳ 18 :
LTS. Tiếp theo phần 1 của loạt bài " Vĩ tuyến 17, Hiệp định Genève, 50 năm nhìn lại", đăng vào số báo thứ Bảy hàng tuần, kể từ đầu tháng 9/2004, VB giới thiệu tiếp phần 2 về tình hình tại miền Nam từ sau Hiệp định Genève đến cuối năm1955. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: Quân lực VNCH trong giai đoạn 1946-1955( Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH); Đông Dương Hấp Hối của cựu Đại tướng Quân đội Pháp Henri Navarre; hồi ký của các cựu Tướng lãnh VNCH: cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Đại tướng Cao Văn Viên; Việc từng ngày 1945-1964 của tác giả Đoàn Thêm; tài liệu riêng của VB.
*Lược ghi tình hình quân sự tại miền Nam trong mùa thu năm 1954
Sau khi đã tiến hành các cuộc triệt thoái lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam tại Bắc Việt và phiá Bắc vĩ tuyến 17 (địa phận Vĩnh Linh, Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình), di chuyển vào các tỉnh miền Trung và Nam Việt, từ tháng 9/1954, Chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đặt lên hàng đầu việc thương thuyết với Pháp để buộc Pháp phải trao trả ngay tức khắc tất cả các chủ quyền quân sự và hành chính thuộc mọi lãnh vực, nhưng sự thương thuyết này bế tắc vì Pháp chỉ chấp thuận giao dần dần lại cho VN. Từ cuối năm 1954, tuy không có 1 thỏa hiệp chính thức nào được ký kết nhưng Pháp theo đường lối của mình dần dần chuyển giao lại cho Việt Nam.
Như đã trình bày, song song với các cuộc thương thuyết với Pháp về quân sự, Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tiến hành kế hoạch sát nhập binh đội và quân nhân các lực lượng giáo phái tại miền Nam vào Quân Đội Quốc gia VN, một kế hoạch đã được đề cập từ trước Hiệp định Genève vài tháng, trong thời kỳ ông Bửu Lộc giữ chức vụ Thủ tướng.Theo quan điểm của Bộ Quốc phòng Quốc gia VN, việc sát nhập này nhằm vào các lực lượng võ trang giáo phái của Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng giáo phái chính yếu. Chính phủ Quốc gia muốn kết hợp tất cả mọi lực lượng võ trang vào một mối, dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia VN. Việc sát nhập được ấn định bởi dụ số 24 QP ngày 10-4-1954, nhưng kế hoạch này chỉ được xúc tiến từ sau ngày đình chiến.
Sau khi ấn định những đặc khoản này, Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành lệnh sát nhập kể từ ngày 1-8-1954 các binh đội của giáo phái:-Trung đoàn 58 thành lập 1-8-1954.Nguồn gốc: binh đội 3 ngàn quân thuộc lực lượng Cao Đài của Trung tướng Nguyễn Thành Phương-Trung đoàn 59 thành lập 1-8-1954.Nguồn quân số: binh đội 3 ngàn quân của lực lượng Hòa Hảo của Trung tướng Trần Văn Soái-Trung đoàn 57 thành lập ngày 1-8-1954 Nguồn quân số: binh đội 3 ngàn quân của lực lượng Hòa Hảo của Thiếu tướng Nguyễn Giác Ngộ. 6 tháng sau, vào mùa Xuân 1955, thêm 1 binh đội 2,600 người thuộc lực lượng Cao Đài của Tướng Trịnh Minh Thế về hợp tác với Chính phủ Quốc gia, một trung đoàn giáo phái được thành lập, đó là Trung đoàn 60 thành lập ngày 1-2-1955. Cuối tháng 3/1955, một binh đội khác gồm 5 ngàn người thuộc lực lượng củaTrung tướng Nguyễn Thành Phương về hợp tác, và Trung đoàn giáo phái thứ 5 được thành lập vào ngày 1-4-1955. Vào đầu tháng 8/1955, Thiếu tướng Nguyễn Giác Ngộ hợp tác chặt chẻ với Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Một binh đội gồm 2 ngàn quân sĩ thuộc lực lượng của Tướng Nguyễn Giác Ngộ lại được chấp thuận gia nhập Quân đội Quốc gia Việt Nam thêm 1 Trung đoàn nữa, đó là Trung đoàn giáo phái thứ 6 được thành lập với danh hiệu Trung đoàn 63.
* Lực lượng Bình Xuyên tại Sài Gòn sau tháng 8/1954.
Trong khi các lực lượng giáo phái lần lượt sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, thì có 1 lực lượng hoạt động biệt lập, và nắm quyền kiểm soát an ninh khu vực Sài Gòn và vùng phụ cận, đó là lực lượng Bình Xuyên. Sau đây là những biểu số tài liệu về Bình Xuyên sau tháng 8/1954.
Theo nghiên cứu của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia VN, sau hiệp định Genève, lực lượng Bình Xuyên gồm có:
2,000 quân, 1,500 công an xung phong, 10,000 đảng viên "mặt trận Bình Dân".
Số 2,000 quân được chia thành 5 tiểu đoàn đánh số từ 1 đến 5. Các tiểu đoàn này đóng quân tại bản doanh cầu cữ Y, Rừng Sát và đôi khi điều động 1 đơn vị hoạt động tại Bà Rịa. Tổng chỉ huy lực lượng Bình Xuyên là Thiếu tướng Lê Văn Viễn (Bảy Viễn); tham mưu trưởng: Đại tá Thái Hoàng Minh; Chỉ huy khu vực Rừng Sát: Trung tá Nguyễn Văn Hiểu; Chỉ huy khu Nhị Thiên Đường và Rạch Cát: Trung tá Tư Đen. Những cấp chỉ huy trọng yếu khác như Trung tá Mười Lực, Trung tá Phước và Thiếu tá Bảy Môn.
Là 1 thành viên nòng cốt của lực lượng Bình Xuyên, trong chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát-Công an, Lai Văn Sang đã tổ chức cho Bình Xuyên một lực lượng công an xung phong gồm 1,500 người. Lai Văn Sang là cánh tay mặt, cố vấn quân sự của Bảy Viễn. Theo đề nghị của Bảy Viễn, năm 1954, Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Lai Văn Sang giữ chức Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát Công an thay thế ông Mai Hữu Xuân. Lai Văn Sang cử ông Nguyễn Văn Tôn giữ chức giám đốc Công an Việt Nam thay thế ông Trần Bá Thành. Đến ngày 25-4-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký lệnh chấm dứt nhiệm vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Công an của Lai Văn Sang, giải tán lực lượng Công an xung phong của Bình Xuyên.
Lai Văn Sang thành lập ra công an xung phong nòng cốt và dùng đảng viên Mặt trận Bình Dân làm lực lượng nòng cốt. Lực lượng công an xung phong được chia thành 2 Tiểu đoàn:
Tiểu đoàn 1 Công an xung phong
Tiểu đoàn 2 Công an xung phong.
Hai tiểu đoàn này chia thành các đại đội, trung đội đóng rải rác trong 21 đồn thuộc Đô thành Sài Gòn, kể cả 350 công an xung phong đóng tại Đà Lạt. Những đồn bót quan trong được phối trí như sau:
-1 đại đội tăng cường đóng tại Trại Mát Đà Lạt.
-1 đại đội phụ trách bót Théopile Đa Kao.
-1 đại đội gác sòng bạc Kim Chung
-1 đại đội gác sòng bạc Đại Thế Giới
-1 đại đội gác trường đua Phú Thọ
-1 đại đội tại hương lộ 22 Phú Nhuận
-1 đại đội Cầu Tân Thuận, Khánh Hội
-1 trung đội khu vực trường Pétrus Ký
-1 trung đội bót Hàng Xanh, Thị Nghè
-1 trung đội bót Hoàng Hưng đường Bùi Chu
-1 trung đội bót Nguyễn Văn Cư, Phú Thọ Hòa
Ngoài các đơn vị trên, Bình Xuyên còn có
-1 chi đội chiến xa gồm 5 xe dodge 4x4 bọc sắt gắn đại liên 12.7 và 13.2
-10 tàu LCVP
-1 tàu Cybrès mũi nhọn, sơn trắng làm Tổng hành dinh cho Tướng Bảy Viễn.
-1 số tàu thường
* Địa bàn hoạt động của Bình Xuyên trước tháng 7/1954.
Trước tháng 7/1954, Pháp rất tin tưởng ông Bảy Viễn nên đã giao cho Bình Xuyên trọn quyền kiểm soát vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và cả đặc khu Rừng Sát, căn cứ cũ của Bình Xuyên, để chống lại Việt Minh, đồng thời giao cả việc bảo vệ thủy lộ từ biển vào thương cảng Sài Gòn.
Bình Xuyên được hưởng rất nhiều đặc quyền về thương mại, khu vực lan rộng đến Vũng Tàu. Bình Xuyên được phép đốn cây trong rừng, thiết lập các đoàn tàu vận tải, thiết lập các công ty trên lộ trình từ Sài Gòn đi lục tỉnh và Vũng Tàu. Theo ghi nhận của các quan sát viên, trên thực tế tại Nam Việt, Bình Xuyên đã điều hành 1 hệ thống độc quyền về vận tải đường bộ.
Bình Xuyên còn được phép mở sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, sòng bạc Kim Chung ở Sài Gòn, và nhà chưá Bình Khang. Số tiền thu được sung vào quỹ riêng của Bình Xuyên, phần lớn ngân khoản đều dành vào việc phát triển tổ chức các đơn vị quân đội của lực lượng này. (Kỳ sau: Lực lượng Bình Xuyên gây hấn tại Sài Gòn).
Kỳ 18 :
LTS. Tiếp theo phần 1 của loạt bài " Vĩ tuyến 17, Hiệp định Genève, 50 năm nhìn lại", đăng vào số báo thứ Bảy hàng tuần, kể từ đầu tháng 9/2004, VB giới thiệu tiếp phần 2 về tình hình tại miền Nam từ sau Hiệp định Genève đến cuối năm1955. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: Quân lực VNCH trong giai đoạn 1946-1955( Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH); Đông Dương Hấp Hối của cựu Đại tướng Quân đội Pháp Henri Navarre; hồi ký của các cựu Tướng lãnh VNCH: cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Đại tướng Cao Văn Viên; Việc từng ngày 1945-1964 của tác giả Đoàn Thêm; tài liệu riêng của VB.
*Lược ghi tình hình quân sự tại miền Nam trong mùa thu năm 1954
Sau khi đã tiến hành các cuộc triệt thoái lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam tại Bắc Việt và phiá Bắc vĩ tuyến 17 (địa phận Vĩnh Linh, Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình), di chuyển vào các tỉnh miền Trung và Nam Việt, từ tháng 9/1954, Chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đặt lên hàng đầu việc thương thuyết với Pháp để buộc Pháp phải trao trả ngay tức khắc tất cả các chủ quyền quân sự và hành chính thuộc mọi lãnh vực, nhưng sự thương thuyết này bế tắc vì Pháp chỉ chấp thuận giao dần dần lại cho VN. Từ cuối năm 1954, tuy không có 1 thỏa hiệp chính thức nào được ký kết nhưng Pháp theo đường lối của mình dần dần chuyển giao lại cho Việt Nam.
Như đã trình bày, song song với các cuộc thương thuyết với Pháp về quân sự, Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tiến hành kế hoạch sát nhập binh đội và quân nhân các lực lượng giáo phái tại miền Nam vào Quân Đội Quốc gia VN, một kế hoạch đã được đề cập từ trước Hiệp định Genève vài tháng, trong thời kỳ ông Bửu Lộc giữ chức vụ Thủ tướng.Theo quan điểm của Bộ Quốc phòng Quốc gia VN, việc sát nhập này nhằm vào các lực lượng võ trang giáo phái của Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng giáo phái chính yếu. Chính phủ Quốc gia muốn kết hợp tất cả mọi lực lượng võ trang vào một mối, dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia VN. Việc sát nhập được ấn định bởi dụ số 24 QP ngày 10-4-1954, nhưng kế hoạch này chỉ được xúc tiến từ sau ngày đình chiến.
Sau khi ấn định những đặc khoản này, Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành lệnh sát nhập kể từ ngày 1-8-1954 các binh đội của giáo phái:-Trung đoàn 58 thành lập 1-8-1954.Nguồn gốc: binh đội 3 ngàn quân thuộc lực lượng Cao Đài của Trung tướng Nguyễn Thành Phương-Trung đoàn 59 thành lập 1-8-1954.Nguồn quân số: binh đội 3 ngàn quân của lực lượng Hòa Hảo của Trung tướng Trần Văn Soái-Trung đoàn 57 thành lập ngày 1-8-1954 Nguồn quân số: binh đội 3 ngàn quân của lực lượng Hòa Hảo của Thiếu tướng Nguyễn Giác Ngộ. 6 tháng sau, vào mùa Xuân 1955, thêm 1 binh đội 2,600 người thuộc lực lượng Cao Đài của Tướng Trịnh Minh Thế về hợp tác với Chính phủ Quốc gia, một trung đoàn giáo phái được thành lập, đó là Trung đoàn 60 thành lập ngày 1-2-1955. Cuối tháng 3/1955, một binh đội khác gồm 5 ngàn người thuộc lực lượng củaTrung tướng Nguyễn Thành Phương về hợp tác, và Trung đoàn giáo phái thứ 5 được thành lập vào ngày 1-4-1955. Vào đầu tháng 8/1955, Thiếu tướng Nguyễn Giác Ngộ hợp tác chặt chẻ với Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Một binh đội gồm 2 ngàn quân sĩ thuộc lực lượng của Tướng Nguyễn Giác Ngộ lại được chấp thuận gia nhập Quân đội Quốc gia Việt Nam thêm 1 Trung đoàn nữa, đó là Trung đoàn giáo phái thứ 6 được thành lập với danh hiệu Trung đoàn 63.
* Lực lượng Bình Xuyên tại Sài Gòn sau tháng 8/1954.
Trong khi các lực lượng giáo phái lần lượt sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, thì có 1 lực lượng hoạt động biệt lập, và nắm quyền kiểm soát an ninh khu vực Sài Gòn và vùng phụ cận, đó là lực lượng Bình Xuyên. Sau đây là những biểu số tài liệu về Bình Xuyên sau tháng 8/1954.
Theo nghiên cứu của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia VN, sau hiệp định Genève, lực lượng Bình Xuyên gồm có:
2,000 quân, 1,500 công an xung phong, 10,000 đảng viên "mặt trận Bình Dân".
Số 2,000 quân được chia thành 5 tiểu đoàn đánh số từ 1 đến 5. Các tiểu đoàn này đóng quân tại bản doanh cầu cữ Y, Rừng Sát và đôi khi điều động 1 đơn vị hoạt động tại Bà Rịa. Tổng chỉ huy lực lượng Bình Xuyên là Thiếu tướng Lê Văn Viễn (Bảy Viễn); tham mưu trưởng: Đại tá Thái Hoàng Minh; Chỉ huy khu vực Rừng Sát: Trung tá Nguyễn Văn Hiểu; Chỉ huy khu Nhị Thiên Đường và Rạch Cát: Trung tá Tư Đen. Những cấp chỉ huy trọng yếu khác như Trung tá Mười Lực, Trung tá Phước và Thiếu tá Bảy Môn.
Là 1 thành viên nòng cốt của lực lượng Bình Xuyên, trong chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát-Công an, Lai Văn Sang đã tổ chức cho Bình Xuyên một lực lượng công an xung phong gồm 1,500 người. Lai Văn Sang là cánh tay mặt, cố vấn quân sự của Bảy Viễn. Theo đề nghị của Bảy Viễn, năm 1954, Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Lai Văn Sang giữ chức Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát Công an thay thế ông Mai Hữu Xuân. Lai Văn Sang cử ông Nguyễn Văn Tôn giữ chức giám đốc Công an Việt Nam thay thế ông Trần Bá Thành. Đến ngày 25-4-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký lệnh chấm dứt nhiệm vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Công an của Lai Văn Sang, giải tán lực lượng Công an xung phong của Bình Xuyên.
Lai Văn Sang thành lập ra công an xung phong nòng cốt và dùng đảng viên Mặt trận Bình Dân làm lực lượng nòng cốt. Lực lượng công an xung phong được chia thành 2 Tiểu đoàn:
Tiểu đoàn 1 Công an xung phong
Tiểu đoàn 2 Công an xung phong.
Hai tiểu đoàn này chia thành các đại đội, trung đội đóng rải rác trong 21 đồn thuộc Đô thành Sài Gòn, kể cả 350 công an xung phong đóng tại Đà Lạt. Những đồn bót quan trong được phối trí như sau:
-1 đại đội tăng cường đóng tại Trại Mát Đà Lạt.
-1 đại đội phụ trách bót Théopile Đa Kao.
-1 đại đội gác sòng bạc Kim Chung
-1 đại đội gác sòng bạc Đại Thế Giới
-1 đại đội gác trường đua Phú Thọ
-1 đại đội tại hương lộ 22 Phú Nhuận
-1 đại đội Cầu Tân Thuận, Khánh Hội
-1 trung đội khu vực trường Pétrus Ký
-1 trung đội bót Hàng Xanh, Thị Nghè
-1 trung đội bót Hoàng Hưng đường Bùi Chu
-1 trung đội bót Nguyễn Văn Cư, Phú Thọ Hòa
Ngoài các đơn vị trên, Bình Xuyên còn có
-1 chi đội chiến xa gồm 5 xe dodge 4x4 bọc sắt gắn đại liên 12.7 và 13.2
-10 tàu LCVP
-1 tàu Cybrès mũi nhọn, sơn trắng làm Tổng hành dinh cho Tướng Bảy Viễn.
-1 số tàu thường
* Địa bàn hoạt động của Bình Xuyên trước tháng 7/1954.
Trước tháng 7/1954, Pháp rất tin tưởng ông Bảy Viễn nên đã giao cho Bình Xuyên trọn quyền kiểm soát vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và cả đặc khu Rừng Sát, căn cứ cũ của Bình Xuyên, để chống lại Việt Minh, đồng thời giao cả việc bảo vệ thủy lộ từ biển vào thương cảng Sài Gòn.
Bình Xuyên được hưởng rất nhiều đặc quyền về thương mại, khu vực lan rộng đến Vũng Tàu. Bình Xuyên được phép đốn cây trong rừng, thiết lập các đoàn tàu vận tải, thiết lập các công ty trên lộ trình từ Sài Gòn đi lục tỉnh và Vũng Tàu. Theo ghi nhận của các quan sát viên, trên thực tế tại Nam Việt, Bình Xuyên đã điều hành 1 hệ thống độc quyền về vận tải đường bộ.
Bình Xuyên còn được phép mở sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, sòng bạc Kim Chung ở Sài Gòn, và nhà chưá Bình Khang. Số tiền thu được sung vào quỹ riêng của Bình Xuyên, phần lớn ngân khoản đều dành vào việc phát triển tổ chức các đơn vị quân đội của lực lượng này. (Kỳ sau: Lực lượng Bình Xuyên gây hấn tại Sài Gòn).
Gửi ý kiến của bạn