(Phòng Thông Tin Phật Giaó Quốc Tế, Paris) - Năm ngoái, trên 300 nhân sĩ, giáo sư đại học, thượng nghị sĩ, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, Âu châu, Úc châu, Nhật bản đã viết thư về Viện Nobel ở thủ đô Oslo, Na Uy, đề cử Hòa thượng Thích Quảng Độ làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình năm 2000.
Năm nay, đa số những nhân sĩ, giáo sư đại học, chính trị gia quốc tế nói trên, mà Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Cơ sở Quê Mẹ tiếp cận, đã viết lại thư đề cử Hòa thượng cho năm 2001.
Tin tức mấy ngày qua, bà Dân biểu Loretta Sanchez, người cùng với 30 Dân biểu Hoa Kỳ đề cử năm ngoái, viết thư cho chúng tôi biết bà sẽ vận động trở lạị Tại Úc, trong thư đề cử Dân Biểu Sercombe ca tụng : "Hòa thượng Thích Quảng Độ là tấm gương sáng khuyến khích mọi người cố công giảm thiểu nỗi khổ đau của con người, bảo vệ quyền con người, và giải quyết mọi tranh chấp bằng phương pháp ôn hoà. Giải thưởng Nobel Hoà Bình sẽ giúp Việt Nam mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và dân chủ hoá xã hội, cũng như củng cố nền hoà bình trong vùng. Trong quân đội Việt Nam có nhiều quân nhân kính trọng Hòa Thượng. Một số quốc gia đang tranh chấp về quần đảo Trường Sa có nhiều người theo đạo Phật, nên giải thưởng dành cho một Tăng sĩ đạo Phật đang nỗ lực hoạt động cho hoà bình và công lý sẽ làm giảm sự căng thẳng trong vùng".
Ngoài ra, những bức thư đề cử gửi về Viện Nobel ở thủ đô Oslo, Na Uy, trong những ngày cuối cùng trước khi hạn nộp đơn kết thúc vào 1.2.2001, mà chúng tôi nhận được gồm có :Ngày 22.1.2001, 5 Dân biểu Quốc hội Âu châu đồng ký tên đề cử Hòa thượng Thích Quảng Độ làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình năm 2001, là Marco Pannella, Marco Cappato, Gianfranco DellõAlba, Benedetto Della Vedova, Maurizio Turco và Olivier Dupuis. Trong bức thư đề cử có đoạn viết : "Hòa thượng Thích Quảng Độ, nhà học giả uyên thâm, giáo sư triết học Đông phương, nhà văn nổi tiếng, và là vị lãnh đạo tối cao thứ hai của Giáo hội Phật gáo Việt Nam Thống nhất. Cuộc đời Hòa thượng được minh chứng như người bảo vệ gương mẫu cho tự do ngôn luận và nhân quyền, dù dưới chế độ miền Nam Việt Nam trước năm 1975 hay dưới chế độ cộng sản ngày naỵ Hòa thượng đã trải qua trên 20 năm tù đày, lưu xứ trên quê hương vì bảo vệ các quan điểm cho nhân phẩm và dân chủ. (...) Các tác phẩm cũng như những lời tuyên bố của Hòa thượng đều hướng đến sự tôn trọng các quyền căn bản và phẩm giá con người, mà gần đây Hòa thượng tóm gọn rằng : "Nhân loại văn minh không cho phép bất cứ một Chính phủ nào, dù dựa trên ý thức hệ hay thể chế chính trị nào, cố tình cá biệt hóa những giá trị phổ quát để dựng lên bức màn sắt hầu cách ly một bộ phận loài người đằng sau bóng tối của lịch sử với ý thức mơ hồ về khái niệm ngụy tạo được mệnh danh là "vấn đề nội bộ"".
Ngày 26.1.2001, Giáo sư Tiến sĩ Bùi Tiến Rung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu NSERC-ALCAN thuộc Đại học Québec, Gia Nã Đại, tôn vinh như sau : "Từ nhiều thập niên qua, Hòa thượng Thích Quảng Độ được quốc tế công nhận như người biện hộ cho mối quan hệ hòa bình và hài hòa giữa các dân tộc xuyên qua tự do tôn giáo, tôn trọng nhân quyền và dân chủ. Đấu tranh cho những mục tiêu như thế chẳng dễ gì trong xứ sở Hòa thượng đang sống, và trong hai mươi năm qua Hòa thượng đã bị nhà cầm quyền Cộng sản giam giữ, quản thúc, sách nhiễụ Nhưng vẫn không làm lòng Hòa thượng nản trong cuộc đấu tranh cho tín ngưỡng của Hòa thượng, một cuộc đấu tranh ôn hòa nhưng kiên cường và từ bị Đối với Phật tử Việt Nam cũng như những người không theo đạo Phật, cuộc đấu tranh Hòa thượng đang lãnh đạo như ngọn hải đăng cho cuộc đấu tranh dài lâu, khó khăn nhưng đang tiếp diễn một cách ôn hòa hướng đến mục tiêu dân chủ và phẩm giá con người".