Khối Minh ước Bắc Đại Tây Dương, vẫn được gọi tắt là NATO, đã được thành lập năm 1949, năm nay vừa tròn 50 tuổi. Lễ “thượng thọ” của nó vào tuần này đáng lẽ diễn ra trong một niềm hân hoan phấn khởi, nhưng vấn đề Kosovo đang làm nó khổ sở. Và khi 19 vị lãnh đạo của 19 nước NATO họp ở Wahington thứ sáu này, có mời thêm 25 vị lãnh tụ thế giới khác tham gia, tính chất long trọng kỷ niệm 50 năm cuộc đời của NATO đã trở thành một dịp tốt để đặt một câu hỏi trớ trêu: tương lai của ông già quắc thước ngũ tuần này rồi đây sẽ ra sao"
Sở dĩ có câu hỏi như vậy với một liên minh quân sự mạnh nhất và cũng duy nhất trên thế giới là vì NATO đang gập một thử thách. Một tháng đã trôi qua kể từ ngày NATO dội bom xuống Nam Tư suốt ngày đêm, vậy mà cho đến giờ phút này người ta vẫn chưa thấy kết thúc. Tại sao một một khối quân sự chỉ mới 10 năm trước đây, đã từng bất chiến mà cũng làm cho một đối thủ ngang tầm cỡ là khối quân sự Warsaw của Cộng sản tự nhiên rã đám, nay lại vất vả với một nước tí hon như Nam Tư, không khuất phục nổi một cá nhân không có tầm cỡ quốc tế như Milosevic đang cầm đầu một nhóm người Serb cực đoan chủ trương dùng bạo lực để “rũ sạch chủng tộc”.
Tôi xin nói ngay câu trả lời nằm trong một vấn đề chiến lược căn bản về quân sự và chính trị đã ngự trị thế giới trong nửa thế kỷ qua và cũng đang chuyển mình để bắc qua thế kỷ tới. Trước hết hãy nhìn xem thế nào là một liên minh quân sự trong thời đại này. Năm 1949, khi Trung Cộng chiếm được toàn thể Hoa lục, các nước Tây phương thấy rùng rợn trước viễn tượng một ngày nào đó Hồng quân Sô Viết cũng tràn qua Tây Âu vì Nga đã cho nổ được một quả bom nguyên tử. Bởi vậy Mỹ và Tây Âu họp nhau lại thành một thế liên minh phòng thủ chung, hễ một nước bị đánh là tất cả hợp quân cùng chống đỡ. Liên Sô đáp lại bằng cách tổ chức một liên minh các nước Cộng sản Đông Âu, hiệp ước được ký kết tại thủ đô Ba Lan nên Tây phương gọi đó là Liên minh Warsaw. Hai khối quân sự này có sức mạnh tương đương về người và vũ khí, nhưng mỗi bên lại xây dựng trên một nền tảng chiến lược khác nhau.
Nền tảng chiến lược của những người Cộng sản ra sao, nó đã được Mao Trạch Đông tóm gọn trong một câu hết ý: “Chính trị từ họng súng mà ra”. Khi anh có súng, có sức mạnh trong tay, anh có thể sai khiến được chính trị, bắt nó phải theo anh. Kinh nghiệm chiến đấu của những người cộng sản là muốn thành lập một chế độ chuyên chính vô sản anh phải dùng bạo lực mà cướp đoạt chính quyền. Lý luận đơn giản là như vậy, nhưng nó đã sai và sai một cách vô cùng tai hại. Bởi vì chính trị xuất phát từ bạo lực chỉ là chính trị giả tạo vì sợ mà theo chớ không phải vì phục mà theo.
Thế giới Cộng sản sở dĩ họp lại được thành một khối do Liên Sô cầm đầu là vì sự sợ hãi của các nước chư hầu, chớ không phải nhờ sự tự do đồng thuận. Trong lúc cường thịnh của đế quốc phong kiến cộng sản, các mầm mống nổi loạn ở chư hầu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi đều bị xe tăng Liên Sô nghiền nát. Khối Warsaw thành hình cũng do nguyên lý bạo lực tạo thành chính trị như vậy. Vì thế khi cái đầu Liên Sô nổ, cả chùm Đông Âu rớt theo rất mau lẹ. Chính trị tàn, quân sự tận.
Nguyên lý “chính trị từ họng súng mà ra” là sai. Nguyên lý đúng là phải ngược lại: “họng súng từ chính trị mà ra”. Chính trị từ họng súng mà ra thì chỉ tạo ra bạo chúa, dùng bạo lực uy hiếp và cưỡng ép chính trị. Còn họng súng từ chính trị mà ra thì đó là chính trị của sự đồng thuận trong tinh thần dân chủ để tạo ra sức mạnh quân sự có chính nghĩa. Khối NATO đã thành hình trong nguyên lý chiến lược căn bản này. Bởi thế không phải đánh mà nó cũng thắng được đối thủ ngang hàng. Nhưng nó phải mất thời gian.
Bởi vì nếu NATO mạnh về chiến lược, nó lại yếu về chiến thuật. Có những lúc Tây Âu và Mỹ bất đồng ý kiến về những vấn đề lớn trên thế giới, kể cả những vấn đề quan trọng như nên hay không nên can thiệp, xuất quân hay không xuất quân, đã tham chiến thì đánh như thế nào. Những nhược điểm đó chỉ là hệ quả của những chế độ hay những tổ chức và tập thể dựa theo nguyên tắc dân chủ mà họp thành. Đã chấp nhận trò chơi dân chủ, người ta cũng phải chấp nhận cả những mặt yếu của nó. Chỉ cần biết rằng nếu đã có sự đồng thuận về chiến lược, những bất đồng về chiến thuật chỉ là hiện tượng, còn thực chất của liên minh bao giờ cũng thắng vì chiến lược của nó dựa trên một mẫu số chung, một mục tiêu rõ rệt không ai có thể tranh cãi.
Liệu NATO có thể tồn tại trong thử thách Kosovo hay không" Tại sao nó không tồn tại được" Nó chỉ không tồn tại được khi nào cái căn bản chiến lược chính trị của nó không còn nữa vì người thấy không cần và chính liên minh tự phá cái thế chiến lược đó. Nền hòa bình thế giới cần trước tiên là một Âu châu thống nhất và ổn định, bởi vì trong quá khứ các cuộc đại chiến đều xuất phát từ Âu châu. Chiến lược đã đúng và cần trong quá khứ và hiện tại, nó cũng đúng và cần trong thế kỷ 21, khi tình hình thế giới càng trở nên phức tạp hơn.
Chúng tôi nghĩ kỷ niệm 50 năm NATO tạo ra một cuộc hội nghị thượng đỉnh toàn cầu lớn nhất chưa từng có. Đây là dịp để xác định thế giới nếu muốn có hòa bình thì không thể nào dung túng cho những bạo chúa và độc tài thống trị ngay từ lúc nó mới nẩy nở ở những nước nhỏ. Chân lý đó muôn đời không thay đổi.
Sở dĩ có câu hỏi như vậy với một liên minh quân sự mạnh nhất và cũng duy nhất trên thế giới là vì NATO đang gập một thử thách. Một tháng đã trôi qua kể từ ngày NATO dội bom xuống Nam Tư suốt ngày đêm, vậy mà cho đến giờ phút này người ta vẫn chưa thấy kết thúc. Tại sao một một khối quân sự chỉ mới 10 năm trước đây, đã từng bất chiến mà cũng làm cho một đối thủ ngang tầm cỡ là khối quân sự Warsaw của Cộng sản tự nhiên rã đám, nay lại vất vả với một nước tí hon như Nam Tư, không khuất phục nổi một cá nhân không có tầm cỡ quốc tế như Milosevic đang cầm đầu một nhóm người Serb cực đoan chủ trương dùng bạo lực để “rũ sạch chủng tộc”.
Tôi xin nói ngay câu trả lời nằm trong một vấn đề chiến lược căn bản về quân sự và chính trị đã ngự trị thế giới trong nửa thế kỷ qua và cũng đang chuyển mình để bắc qua thế kỷ tới. Trước hết hãy nhìn xem thế nào là một liên minh quân sự trong thời đại này. Năm 1949, khi Trung Cộng chiếm được toàn thể Hoa lục, các nước Tây phương thấy rùng rợn trước viễn tượng một ngày nào đó Hồng quân Sô Viết cũng tràn qua Tây Âu vì Nga đã cho nổ được một quả bom nguyên tử. Bởi vậy Mỹ và Tây Âu họp nhau lại thành một thế liên minh phòng thủ chung, hễ một nước bị đánh là tất cả hợp quân cùng chống đỡ. Liên Sô đáp lại bằng cách tổ chức một liên minh các nước Cộng sản Đông Âu, hiệp ước được ký kết tại thủ đô Ba Lan nên Tây phương gọi đó là Liên minh Warsaw. Hai khối quân sự này có sức mạnh tương đương về người và vũ khí, nhưng mỗi bên lại xây dựng trên một nền tảng chiến lược khác nhau.
Nền tảng chiến lược của những người Cộng sản ra sao, nó đã được Mao Trạch Đông tóm gọn trong một câu hết ý: “Chính trị từ họng súng mà ra”. Khi anh có súng, có sức mạnh trong tay, anh có thể sai khiến được chính trị, bắt nó phải theo anh. Kinh nghiệm chiến đấu của những người cộng sản là muốn thành lập một chế độ chuyên chính vô sản anh phải dùng bạo lực mà cướp đoạt chính quyền. Lý luận đơn giản là như vậy, nhưng nó đã sai và sai một cách vô cùng tai hại. Bởi vì chính trị xuất phát từ bạo lực chỉ là chính trị giả tạo vì sợ mà theo chớ không phải vì phục mà theo.
Thế giới Cộng sản sở dĩ họp lại được thành một khối do Liên Sô cầm đầu là vì sự sợ hãi của các nước chư hầu, chớ không phải nhờ sự tự do đồng thuận. Trong lúc cường thịnh của đế quốc phong kiến cộng sản, các mầm mống nổi loạn ở chư hầu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi đều bị xe tăng Liên Sô nghiền nát. Khối Warsaw thành hình cũng do nguyên lý bạo lực tạo thành chính trị như vậy. Vì thế khi cái đầu Liên Sô nổ, cả chùm Đông Âu rớt theo rất mau lẹ. Chính trị tàn, quân sự tận.
Nguyên lý “chính trị từ họng súng mà ra” là sai. Nguyên lý đúng là phải ngược lại: “họng súng từ chính trị mà ra”. Chính trị từ họng súng mà ra thì chỉ tạo ra bạo chúa, dùng bạo lực uy hiếp và cưỡng ép chính trị. Còn họng súng từ chính trị mà ra thì đó là chính trị của sự đồng thuận trong tinh thần dân chủ để tạo ra sức mạnh quân sự có chính nghĩa. Khối NATO đã thành hình trong nguyên lý chiến lược căn bản này. Bởi thế không phải đánh mà nó cũng thắng được đối thủ ngang hàng. Nhưng nó phải mất thời gian.
Bởi vì nếu NATO mạnh về chiến lược, nó lại yếu về chiến thuật. Có những lúc Tây Âu và Mỹ bất đồng ý kiến về những vấn đề lớn trên thế giới, kể cả những vấn đề quan trọng như nên hay không nên can thiệp, xuất quân hay không xuất quân, đã tham chiến thì đánh như thế nào. Những nhược điểm đó chỉ là hệ quả của những chế độ hay những tổ chức và tập thể dựa theo nguyên tắc dân chủ mà họp thành. Đã chấp nhận trò chơi dân chủ, người ta cũng phải chấp nhận cả những mặt yếu của nó. Chỉ cần biết rằng nếu đã có sự đồng thuận về chiến lược, những bất đồng về chiến thuật chỉ là hiện tượng, còn thực chất của liên minh bao giờ cũng thắng vì chiến lược của nó dựa trên một mẫu số chung, một mục tiêu rõ rệt không ai có thể tranh cãi.
Liệu NATO có thể tồn tại trong thử thách Kosovo hay không" Tại sao nó không tồn tại được" Nó chỉ không tồn tại được khi nào cái căn bản chiến lược chính trị của nó không còn nữa vì người thấy không cần và chính liên minh tự phá cái thế chiến lược đó. Nền hòa bình thế giới cần trước tiên là một Âu châu thống nhất và ổn định, bởi vì trong quá khứ các cuộc đại chiến đều xuất phát từ Âu châu. Chiến lược đã đúng và cần trong quá khứ và hiện tại, nó cũng đúng và cần trong thế kỷ 21, khi tình hình thế giới càng trở nên phức tạp hơn.
Chúng tôi nghĩ kỷ niệm 50 năm NATO tạo ra một cuộc hội nghị thượng đỉnh toàn cầu lớn nhất chưa từng có. Đây là dịp để xác định thế giới nếu muốn có hòa bình thì không thể nào dung túng cho những bạo chúa và độc tài thống trị ngay từ lúc nó mới nẩy nở ở những nước nhỏ. Chân lý đó muôn đời không thay đổi.
Gửi ý kiến của bạn