Phương tiện thứ nhứt là Uûy ban giám sát, điều tra các vi phạm nhân quyền của CS của Quốc hội Mỹ. Nếu chúng ta cung cấp bằng cớ đầy đủ, liên lạc thông suốt cho Uûy ban, thì cái phao cứu sịnh của CS là Thương Ước sẽ vô hiệu. Quốc hội và nhân dân Mỹ đồng ý giao thương với CS Hà nội nhưng không chấp nhận đồng đô la dính máu người dân bị độc tài đảng trị đàn áp, dính mồ hôi trẻ em bị cưỡng bức lao động, dính nước mắt của phụ nữ bị bán mình cho nô lệ tình dục vì đói nghèo, kỳ thị nguồn gốc, lý lịch.
Thứ hai, mỗi năm Quốc Hội Mỹ dành 2 triệu Mỹ kim để giúp cá nhân và tập thể phi chánh phủ trong cũng như ngoài nước hoạt động phát triễn tự do dân chủ và nhân quyền. Các Hội đoàn văn hoá chánh trị hải ngoại, đối tượng tài trợ, cần dành ưu tiên cho cuộc đấu tranh trong nước. Tập trung phương tiện vào ưu tiên 1, vận động cho tự do dân chủ và nhân quyền thay vì sử dụng vào các mục tiêu gián tiếp có tính văn hoá, giáo dục, và nhân đạo. Nhu cầu trước mắt tăng cường tối đa diễn biến hoà bình tạo thế thậm chí nguy cho CS. Thọc sâu, thọc mạnh, thọc nữa vào điểm yếu này của CS là giúp cho các lãnh tụ tôn giáo, trí thức đang đấu tranh trong nước. Đối tượng ưu tiên là quần chúng có tín ngưỡng và trên 50% dân số là thanh niên trong nước.
Phương tiện hữu hiệu và nhanh nhứt là sử dụng kỹ thuật cao Internet của thời đại Tin học. Có người nói ở nước nhà có mấy người có máy computers đâu, ở nước ngoài những người lớn tuổi đa số dị ứng với computers, thì dùng Internet làm sao kết quả. Thưa không. Đông Timor ngày nay có bầu cử tự do, Kashmir không bị đàn áp, mỗi ngày bà con mình đọc báoViệt tin tức nước nhà dồi dào và sốt dẻo hơn RFI, BBC là nhờ Internet đó. Mỗi lần tập hợp bà con mình được nghe HT Quảng Độ, Cụ Lê quang Liêm, LM Nguyễn văn Lý thưa chuyện cùng đồng bào là nhờ kỹ thuật cao Tin học đó.Các lãnh tụ đấu tranh liện lạc được với nhau để phối hợp công tác cũng nhờ kỹ thuật Tin học do nhiều anh hùng vô danh trẻ bỏ công, sức giúp đó.
Do vậy cách xâm nhập bằng Internet vào VN là một nhu cầu hàng đầu. Gởi cho bà con, thân nhân, người đấu tranh, thanh niên sinh viên, học sinh như Mỹ thả radios ra Bắc trong Chiến tranh VN. Suy nghĩ chế biến làm sao phần mềm của các máy tặng vượt bức tường lửa của CS. Hướng dẫn người trong nước cách chuyển tin vượt kiểm soát của CS. Tố giác, truy tố tại Mỹ các vi phạm bản quyền điện tử, các rào cản điện tư, các đặc công CS phá hoại bằng computer viruses. Khai thác và trân trọng sỡ trường và ưu thế này của thế hệ thứ hai người Việt hải ngoại. Kỹ thuật Tin học của Mỹ, Trung Cộng còn đi sau đuôi. CIA Mỹ vừa công khai và mạnh dạn cho biết đã làm ra được phần mềm chống vi khuẩn của Trung Cộng thì sá gì sựphá hoại tin học của CS Hà nội. Sữ dụng quỉ tài trợ vào những việc đại loại như thế. Lớp trẻ ngườiViệt Hải ngoại trong cái rủi xa quê cha đất tổ có cái may là hưởng thụ được nền giáo dục Tin học tại cái nôi và cũng là nước dẫn đầu computers trên thế giới.
Đầy đủ tư cách và kỹ năng trong lãnh vực Tin học là lớp trẻ của người Việt hải ngoại. Cái gì chớ nói lớp trẻ VN cần tài trợï cho mặt trận điện tử đấu tranh cho nhân quyền là đúng ý Quốc hội Mỹ lắm. Hai triệu đô tài trợ của luật HR 2368 có sẵn và còn 1001 cách để các dân biểu, nghị sĩ vận động các cơ quan chuyên hoạt động che dấu du di chương mục để giúp trong việc này. Nó dễ ngàn lần hơn so với việc xin một viên đạn, chục lần lần hơn xin phép biểu tình chống văn hoá tuyên truyền CS, trái với luật bang giao của Mỹ.
Phương tiện thứ ba là đòi hỏi công lý trong cái gọi là giao lưu văn hoá của CS Hà nội. Biểu tình chống văn hoá tuyên truyền của CS tại Mỹ chỉ là phòng vệ. Phòng vệ tốt nhứt là tấn công vào tận sào huyệt của đối phương. Nếu Mỹ cho CS Hà nội gởi đoàn văn Công qua Mỹ lưu diễn, gởi văn hoá phẩm sang Mỹ để bán, CS không có lý do gì để từ chối một đoàn văn nghệ của người Mỹ gốc Việt qua VN lưu diễn, không có lý do gì để từ chối Mỹ gởi sách báo của người Mỹ gốc Việt qua VN bán. Phải đặt vấn đề không bằng lý luận suông mà bằng hành động thiết thực. Gởi nghệ sĩ, gởi sách báo trước đi để CS Hà nội chắc chắn sẽ từ chối hầu có lý do và bằng cớ cụ thể đòi chánh quyền Mỹ can thiệp. Vì nghĩa vụ với công dân ( người Mỹ gốc Việt là công dân Mỹ kia mà) và vì lẽ công bình, muốn hay không Mỹ cũng đặt thành vấn đề, tạo khó khăn ngoại giao cho CS Hà nội. Các hội văn hoá, các đoàn văn nghệ hải ngoại là những tổ chức bất vụ lợi theo qui chế Mỹ có đầy đủ tư cách xin tài trợ quỷ 2 triệu của Quốc hội và thừa tư cách pháp nhân để yêu cầu pháp luật Mỹ can thiệp khi bị CS từ chối.
Trên đây là những thí dụ điễn hình người Việt tại Mỹ có thể vận dung khi luật HR 2368 ra đời. Đó mới chỉ là hai gợi ý thô thiễn của một người. Cộng đồng người Việt hải ngoại đa số là thành phần ưu tú của VNCH và lớp trẻ được ăn học tại Mỹ, chắc chắn sẽ còn nhiều cao kiến và sáng tạo hơn trong việc vận dụng luật ấy để cuộc đấu tranh trong nước sớm đi đến thắng lợi. Nhứt định những sai lầm cũ, tham nhũng, tranh giành quyền lợi, lạm dụng viện trợ Mỹ làm chánh quyền yếu dần và mất khi xưa, sẽ không tái diễn sau 26 năm bạc tóc suy tư.
Quốc hội và Nhân dân Mỹ đã chia xẻ quan điểm lập trường và chánh nghĩa đấu tranh với chúng ta. Họ đã làm những điều phải làm. Chuyện còn lại là chuyện của chúng ta. Tự do dân chủ, nhân quyền VN là chuyện của chúng ta. Không thể xin mà có, phải đấu tranh mới được. Và Mỹ đã giúp phương tiện cụ thể qua Luật HR 2368. Phương tiện Tin học là sở trường của lớp trẻ Việt hải ngoại. Cần làm chủ kỹ thuật này trong cuộc vận động chiến cho tự do, dân chủ, và nhân quyền. Trong đấu tranh ai dài hơi, ai làm chủ được kỹ thuật mới là người đó thắng.