Đức Đạt Lai Lạt Ma: Từ Chức Chánh Trị
Vi Anh
Đức Đạt Lai Lạt Ma từ chức chánh trị là một hành động chánh trị quá khôn khéo. Phải một chánh trị gia minh triết, một lãnh tụ anh minh, thực sự vì dân, của dân mới làm như vậy. Ngài đã mở đường cho tiến trình dân chủ hanh thông cho quốc gia dân tộc và tạo điều kiện cho cộng đồng Tây Tạng hải ngoại với hai xu thế đấu tranh khác biệt, Tây Tạng độc lập và Tây Tạng tự trị đối với Trung Cộng, có thể dung hoà, thuận họp và đoàn kết với nhau khi Ngài không còn ở cõi ta bà này nữa.
Theo dòng thời gian gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần bày tỏ ý muốn giả từ vai trò lãnh đạo chánh trị mà chức vụ của Đạt Lai Lạt Ma của Ngài theo hiến pháp qui định phải kiêm nhiệm. Nhứt là khi tạm rời khỏi đất nước bị TC xâm chiếm, chánh quyền và giáo hội phải lưu vong sang Ấn độ, Tây Tạng lâm vào quốc nạn và pháp nạn khốn khổ nhứt trong lịch sử đạo và đời của Tây Tạng, thực tế tình hình bi đát của Tây Tạng đòi hỏi Ngài phải có mặt. Ngài đã làm tất cả điều gì có thể làm được và không từ bỏ cơ hội nào để thực thể quốc gia dân tộc Tây Tạng và Phật Giáo Tây Tạng tồn tại trong chính trường và ngoại giao của thế giới. Và nhân dân cùng chánh quyền Tây Tạng hải ngoại gắn bó với nhau. Nhứt là đồng bào Tây Tạng trong nước có hướng nhìn, điểm hội tụ, niềm hy vọng quốc gia và đạo pháp của Tây Tạng thoát khỏi nạn Hán hoá và cộng sản hoá của Trung Cộng.
Như đã biết quyết định khá lâu và bày tỏ nhiều lần nhưng tình hình chưa cho phép Ngài hành động. Ngài không thể xuất thế, ngồi yên trên bồ đoàn khi con thuyền quốc gia dân tộc trong cơn nguy biến. Quốc nạn, pháp nạn ngày càng nặng. Văn hoá Tây Tạng ngày càng bị TC cào bằng. Phật Giáo mật tông bị TC quốc doanh hoá. Nhân dân và chánh quyền cần Ngài như một biểu tượng đoàn kết đạo và đời trong hàng ngũ người Tây Tạng trong, ngoài nước và trên chánh trường quốc tế.
Mãi tới bây giờ ý nguyện của Ngài mới thành, Ngài mới biến thành hành động từ chức chánh trị được. Một hành động đúng thời cơ, nhân hoà. Trong thời gian làn gió cách mạng Hoa Lài lật đổ những chế độ độc tài thâm căn cố đế. Vào lúc báo Times ở Ấn độ không ngần ngại nối hương hoa lài cho Tây Tạng.
Ngài là một lãnh tụ chánh trị minh triết nên đi trước thời cuộc, mở đường mới cho lịch sử Tây Tạng. Ngài tự động tạo điều kiện cho Quốc Hội bầu ra một Thủ Tướng để Ngài giao tay lái con thuyền quốc gia Tây Tạng cho vị lãnh đạo mới điều hành chánh quyền Tây Tạng lưu vong tại Dharamsala, miền Bắc Ân độ. Làm thế chẳng những Ngài tạo điều kiện đưa chánh quyền lưu vong vào lộ trình và tiến trình dân chủ hoá mà còn tránh cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong xâu xé nhau khi Ngài không còn ở cõi ta bà này nữa để can gián, khuyên lơn, ngăn trở.
Vì như bất cứ chánh quyền, nhân dân, xã hội nào lúc nào, nơi đâu cũng có khác biệt về xu thế chánh trị. Nhứt là Tây Tạng lưu vong phải đương đầu với TC thường xuyên đánh phá bằng tuyên truyền đen, trắng, xám, dân, quân, địch vận và đánh phá bằng ngoại giao. Quốc gia nào, lãnh đạo quốc gia, quốc tế nào Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp viếng là CS Bắc Kinh dùng kinh tế để áp lực, dùng ngoại giao để hăm he ngăn cản.
Ngài từ nhiệm chánh trị dù Hiến Pháp hiện hành của Tây Tạng lưu vong qui định Đức Đạt Lai Lat Ma như Ngài gần như có toàn quyền chánh trị. Đức Đạt Lai Lạt Ma có quyền giải tán Quốc Hội, bãi nhiệm bộ trưởng, mọi luật lệ do Quốc Hội làm ra phải được Ngài chuẩn thuận mới ban hành thành luật.
Cộng với luật tục lệ và phong tục tập quán Đức Đạt Lai Lạt Ma được người tín đồ và giáo hội coi như Phật sống, nên hằng bao nhiêu thế kỷ Đức Đạt Lai Lạt Ma như Ngài vừa nắm thế quyền và thần quyền luôn.
Việc từ nhiệm chánh trị của Ngài để người mới lên nắm chánh quyền là một cuộc cách mạng rốt ráo, căn bản nhứt của Tây Tạng.
Nó mở đường cho tiến trình dân chủ Tây Tạng, do vị lãnh tụ chánh trị anh minh tạo ra, người dân không tốn một lời đòi hỏi nào. Trái lại nhiều người dân núng níu, cầm cộng và ngậm ngùi khi Ngài tự giả từ chánh trị.
Quốc Hội đồng thuận với Ngài trong việc tách bạch thần quyền ra khỏi thế quyền. Một tu sĩ tương đối còn trẻ, sức khoẻ dồi dào là Samdhong Rinpoché chắc sẽ được Quốc Hội cử lên làm Thủ Tướng đế nắm chánh quyền, giải quyết việc nước, chuyện dân.
Quyết định từ nhiệm lãnh đạo chánh trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma rất hợp với lòng mong mỏi và chủ trương đấu tranh cho nước Tây Tạng “độc lập”, chớ không phải “tự trị” như của Đức Đạt Lai Lạt Ma lâu nay. Tầng lớp trẻ với một thủ tướng trẻ sẽ đương đầu với TC.
Và TC biết rõ viễn kiến khôn khéo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nên phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao của TC là Jiang Yu, cáo giác bằng những ý và lời như “Đạt Lai Lạt Ma thường nói đến chuyện rút lui mấy năm sau này. Tôi nghĩ đó là những mưu mô lường gạt cộng đồng thế giới.”
Trong cuộc đấu tranh trường kỳ giải trừ quốc nạn và pháp nạn cho Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hơn một lần vì tình hình mới nên áp dụng chiến thuật mới. Năm 1979, khi Đặng tiểu Bình nắm chánh quyền, đảng quyền và quân quyền ở TC, Ngài chuyển sang con đường trung dung, nói chuyện lại với TC. Ngài sẵn sàng chấp nhận Tây Tạng tự trị trong chánh quyền của TC. Nhưng TC không chịu, luôn luôn tấn công cá nhân Đức Đạt Lai Lạt Ma. TC gây đủ thứ khó khăn để chống công trình quốc tế vận cho Tây Tạng của Ngài, bằng cách hăm he ngoại giao, giao thương của các lãnh đạo quốc gia mà Ngài đến viếng.
Quần chúng Tây Tạng trong cũng như ngoài nước cũng như hàng tăng ni nhận thấy con đường trung đạo của Ngài không hiệu quả. TC chỉ muốn biến Tây Tạng thành một tỉnh như Tân Cương. Tây Tạng không còn sự chọn lựa nào khác phải kiên định đấu tranh cho nền độc lập thay vì tự trị như chủ trương của Ngài.
Là một lãnh tụ anh minh, một triết gia chánh trị, rất lắng nghe quần chúng. Ngài tôn trọng ý kiến lớp trẻ vì họ là người chủ tương lai của Tây Tạng. Ngài thường nói, “Các tổ chức của lớp trẻ Tây Tạng rõ ràng muốn độc lập. Họ không đồng ý với tôi... Chân tình mà nói khi đường hướng của tôi thất bại, chính những người trẻ này hoàn toàn có quyền cầm lấy ngọn lửa soi đường và đòi hỏi độc lập.” Trong năm 2008, có lẽ là thời điểm của bước ngoặt quyết định từ nhiệm chánh trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Lúc bấy giờ, các nhà sư trẻ và lớp trẻ Tây Tạng nổi lên chống cuộc rước đuốc Thế Vận Hội Bắc Kinh, Tây Tạng. Có bạo động, có máu nước mắt, bắt bớ, giam cầm, Ngài có những lời khuyên «Người Tây Tạng nên học cách sống với người Tàu” nên chấm dứt những cuộc chống đối bạo động. Và Ngài còn nói nếu tình hình vượt ngoài vòng kiểm soát, Ngài sẽ không ngần ngại từ chức./. ( Vi Anh)
Vi Anh
Đức Đạt Lai Lạt Ma từ chức chánh trị là một hành động chánh trị quá khôn khéo. Phải một chánh trị gia minh triết, một lãnh tụ anh minh, thực sự vì dân, của dân mới làm như vậy. Ngài đã mở đường cho tiến trình dân chủ hanh thông cho quốc gia dân tộc và tạo điều kiện cho cộng đồng Tây Tạng hải ngoại với hai xu thế đấu tranh khác biệt, Tây Tạng độc lập và Tây Tạng tự trị đối với Trung Cộng, có thể dung hoà, thuận họp và đoàn kết với nhau khi Ngài không còn ở cõi ta bà này nữa.
Theo dòng thời gian gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần bày tỏ ý muốn giả từ vai trò lãnh đạo chánh trị mà chức vụ của Đạt Lai Lạt Ma của Ngài theo hiến pháp qui định phải kiêm nhiệm. Nhứt là khi tạm rời khỏi đất nước bị TC xâm chiếm, chánh quyền và giáo hội phải lưu vong sang Ấn độ, Tây Tạng lâm vào quốc nạn và pháp nạn khốn khổ nhứt trong lịch sử đạo và đời của Tây Tạng, thực tế tình hình bi đát của Tây Tạng đòi hỏi Ngài phải có mặt. Ngài đã làm tất cả điều gì có thể làm được và không từ bỏ cơ hội nào để thực thể quốc gia dân tộc Tây Tạng và Phật Giáo Tây Tạng tồn tại trong chính trường và ngoại giao của thế giới. Và nhân dân cùng chánh quyền Tây Tạng hải ngoại gắn bó với nhau. Nhứt là đồng bào Tây Tạng trong nước có hướng nhìn, điểm hội tụ, niềm hy vọng quốc gia và đạo pháp của Tây Tạng thoát khỏi nạn Hán hoá và cộng sản hoá của Trung Cộng.
Như đã biết quyết định khá lâu và bày tỏ nhiều lần nhưng tình hình chưa cho phép Ngài hành động. Ngài không thể xuất thế, ngồi yên trên bồ đoàn khi con thuyền quốc gia dân tộc trong cơn nguy biến. Quốc nạn, pháp nạn ngày càng nặng. Văn hoá Tây Tạng ngày càng bị TC cào bằng. Phật Giáo mật tông bị TC quốc doanh hoá. Nhân dân và chánh quyền cần Ngài như một biểu tượng đoàn kết đạo và đời trong hàng ngũ người Tây Tạng trong, ngoài nước và trên chánh trường quốc tế.
Mãi tới bây giờ ý nguyện của Ngài mới thành, Ngài mới biến thành hành động từ chức chánh trị được. Một hành động đúng thời cơ, nhân hoà. Trong thời gian làn gió cách mạng Hoa Lài lật đổ những chế độ độc tài thâm căn cố đế. Vào lúc báo Times ở Ấn độ không ngần ngại nối hương hoa lài cho Tây Tạng.
Ngài là một lãnh tụ chánh trị minh triết nên đi trước thời cuộc, mở đường mới cho lịch sử Tây Tạng. Ngài tự động tạo điều kiện cho Quốc Hội bầu ra một Thủ Tướng để Ngài giao tay lái con thuyền quốc gia Tây Tạng cho vị lãnh đạo mới điều hành chánh quyền Tây Tạng lưu vong tại Dharamsala, miền Bắc Ân độ. Làm thế chẳng những Ngài tạo điều kiện đưa chánh quyền lưu vong vào lộ trình và tiến trình dân chủ hoá mà còn tránh cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong xâu xé nhau khi Ngài không còn ở cõi ta bà này nữa để can gián, khuyên lơn, ngăn trở.
Vì như bất cứ chánh quyền, nhân dân, xã hội nào lúc nào, nơi đâu cũng có khác biệt về xu thế chánh trị. Nhứt là Tây Tạng lưu vong phải đương đầu với TC thường xuyên đánh phá bằng tuyên truyền đen, trắng, xám, dân, quân, địch vận và đánh phá bằng ngoại giao. Quốc gia nào, lãnh đạo quốc gia, quốc tế nào Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp viếng là CS Bắc Kinh dùng kinh tế để áp lực, dùng ngoại giao để hăm he ngăn cản.
Ngài từ nhiệm chánh trị dù Hiến Pháp hiện hành của Tây Tạng lưu vong qui định Đức Đạt Lai Lat Ma như Ngài gần như có toàn quyền chánh trị. Đức Đạt Lai Lạt Ma có quyền giải tán Quốc Hội, bãi nhiệm bộ trưởng, mọi luật lệ do Quốc Hội làm ra phải được Ngài chuẩn thuận mới ban hành thành luật.
Cộng với luật tục lệ và phong tục tập quán Đức Đạt Lai Lạt Ma được người tín đồ và giáo hội coi như Phật sống, nên hằng bao nhiêu thế kỷ Đức Đạt Lai Lạt Ma như Ngài vừa nắm thế quyền và thần quyền luôn.
Việc từ nhiệm chánh trị của Ngài để người mới lên nắm chánh quyền là một cuộc cách mạng rốt ráo, căn bản nhứt của Tây Tạng.
Nó mở đường cho tiến trình dân chủ Tây Tạng, do vị lãnh tụ chánh trị anh minh tạo ra, người dân không tốn một lời đòi hỏi nào. Trái lại nhiều người dân núng níu, cầm cộng và ngậm ngùi khi Ngài tự giả từ chánh trị.
Quốc Hội đồng thuận với Ngài trong việc tách bạch thần quyền ra khỏi thế quyền. Một tu sĩ tương đối còn trẻ, sức khoẻ dồi dào là Samdhong Rinpoché chắc sẽ được Quốc Hội cử lên làm Thủ Tướng đế nắm chánh quyền, giải quyết việc nước, chuyện dân.
Quyết định từ nhiệm lãnh đạo chánh trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma rất hợp với lòng mong mỏi và chủ trương đấu tranh cho nước Tây Tạng “độc lập”, chớ không phải “tự trị” như của Đức Đạt Lai Lạt Ma lâu nay. Tầng lớp trẻ với một thủ tướng trẻ sẽ đương đầu với TC.
Và TC biết rõ viễn kiến khôn khéo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nên phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao của TC là Jiang Yu, cáo giác bằng những ý và lời như “Đạt Lai Lạt Ma thường nói đến chuyện rút lui mấy năm sau này. Tôi nghĩ đó là những mưu mô lường gạt cộng đồng thế giới.”
Trong cuộc đấu tranh trường kỳ giải trừ quốc nạn và pháp nạn cho Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hơn một lần vì tình hình mới nên áp dụng chiến thuật mới. Năm 1979, khi Đặng tiểu Bình nắm chánh quyền, đảng quyền và quân quyền ở TC, Ngài chuyển sang con đường trung dung, nói chuyện lại với TC. Ngài sẵn sàng chấp nhận Tây Tạng tự trị trong chánh quyền của TC. Nhưng TC không chịu, luôn luôn tấn công cá nhân Đức Đạt Lai Lạt Ma. TC gây đủ thứ khó khăn để chống công trình quốc tế vận cho Tây Tạng của Ngài, bằng cách hăm he ngoại giao, giao thương của các lãnh đạo quốc gia mà Ngài đến viếng.
Quần chúng Tây Tạng trong cũng như ngoài nước cũng như hàng tăng ni nhận thấy con đường trung đạo của Ngài không hiệu quả. TC chỉ muốn biến Tây Tạng thành một tỉnh như Tân Cương. Tây Tạng không còn sự chọn lựa nào khác phải kiên định đấu tranh cho nền độc lập thay vì tự trị như chủ trương của Ngài.
Là một lãnh tụ anh minh, một triết gia chánh trị, rất lắng nghe quần chúng. Ngài tôn trọng ý kiến lớp trẻ vì họ là người chủ tương lai của Tây Tạng. Ngài thường nói, “Các tổ chức của lớp trẻ Tây Tạng rõ ràng muốn độc lập. Họ không đồng ý với tôi... Chân tình mà nói khi đường hướng của tôi thất bại, chính những người trẻ này hoàn toàn có quyền cầm lấy ngọn lửa soi đường và đòi hỏi độc lập.” Trong năm 2008, có lẽ là thời điểm của bước ngoặt quyết định từ nhiệm chánh trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Lúc bấy giờ, các nhà sư trẻ và lớp trẻ Tây Tạng nổi lên chống cuộc rước đuốc Thế Vận Hội Bắc Kinh, Tây Tạng. Có bạo động, có máu nước mắt, bắt bớ, giam cầm, Ngài có những lời khuyên «Người Tây Tạng nên học cách sống với người Tàu” nên chấm dứt những cuộc chống đối bạo động. Và Ngài còn nói nếu tình hình vượt ngoài vòng kiểm soát, Ngài sẽ không ngần ngại từ chức./. ( Vi Anh)
Gửi ý kiến của bạn