Lý Sinh, người huyện Gia Tường, sở trường về gảy đàn cầm. Một hôm đi ngang Đông Giao, thấy bọn công nhân làm đường đào được một cây đàn cầm cổ, bèn hớn hở chạy tới mà nói rằng:
- Cha tôi thuở sinh tiền thích đàn cầm. Nay giỗ chạp ba năm, mà có được cây đàn này đặt bên bài vị, thì trước là đặng nghĩa cha con. Sau ở suối xa cũng vơi bớt đôi phần đơn chiếc.
Bọn công nhân nghe Sinh nói vậy, liền bàn bạc cùng nhau, rồi một mạng đáp:
- Muốn gặt thì phải gieo. Muốn ăn phải lăn lưng vào bếp. Muốn hậu vận sáng ngời phải… đút lót cõi trên. Cho yên lòng yên trí.
Bèn tặng cây đàn cầm cho Sinh đem về cúng bố. Lúc đến nhà, Sinh lấy nước chanh trộn với tro, rồi nhúng giẻ mà lau. Chẳng mấy chốc đã ào lên bóng láng. Đã vậy lại lên dây gảy thử, thì thấy tiếng đàn trầm bổng thật hay, khó lòng chê được. Sinh mừng lắm, như bắt được vàng, bèn đến bên bài vị của cha khẩn cầu:
- Âm dương hai đàng cách biệt, nên đồ vật cõi này, không thể xài ở cõi kia. Vậy con sẽ vẽ chiếc đàn này lại - rồi nổi lửa tiễn đưa - thì ở phương xa cha mới ngồi chơi được.
Đoạn, lấy một vuông khăn bằng gấm. Đặt chiếc đàn cầm vào, gói lại rồi cất kỷ vào rương, cho bình tâm chắc cú. Đã vậy còn thì thào tự nhủ:
- Sống để bên mình. Chết bỏ mang theo. Quyết chẳng nhẹ dạ mà đi mần di chúc!
Ngày nọ, có Trình Thăng tới nhậm chức quan huyện. Nghe tiếng Sinh là người thạo về âm luật. Giỏi về đàn cầm, bèn sai người đưa danh thiếp đến vấn an. Chúc dồi dào sức khỏe. Lý Sinh. Vốn người trầm lặng, lại ít giao du, nên khi được danh thiếp của quan, liền suy nghĩ tùm lum tứ tán:
- Mình là dân, họ là quan, đã đôi đàng cách biệt, thì làm sao có thể thỏa tình cá nước, là một cái thua. Người ta mới đến nhậm chức, mà coi trọng mình làm vậy. Lỡ một mai mình đàn không hay nữa, hoặc lụm khụm đánh sai, thì không biết cái mạng nhỏ híu ni còn hay… mất trắng, là hai cái thua. Từ nào tới giờ mình sống đời thanh bạch. Dưa muối qua ngày. Nay lại đụng đến quan, thì tránh đâu cho khỏi miệng thế nhân nói: Thấy sang bắt quàng làm họ, là ba cái thua.
Người ta có quyền có thế trong tay, thì muốn xử muốn bắt lúc nào mà chẳng được, trong khi mình chỉ hàng dân dã. Bé miệng kêu ai" Là bốn cái thua. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Người ta có mời mình, thì nem công chả phượng chỉ là chuyện nhỏ, trong khi với mình lại là chuyện lớn. Chỉ đặng trong mơ, là năm cái thua. Với năm cái thua đó, thì mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, vẫn chắc hơn là qua lại với quan, rồi có ngày… đứt bóng!
Mấy ngày sau, quan huyện lại cho người đem danh thiếp tới, kèm theo chục cam sành đầu mùa, cùng mong sớm tương ngộ cùng nhau, cho thỏa tình mơ ước. Lý Sinh. Cho dầu ít giao du, nhưng với chân tình của Trình Thăng, cũng rúng động tâm can mà bảo dạ rằng:
- Ngày xưa Lưu Bị tam cố thảo lư, mới mời được Gia Cát Lượng rời bỏ lều tranh đặng giúp mình lên ngôi thiên tử. Còn ta. Tài thì chỉ gảy được đàn cầm. Tế thế kinh bang thì tuyệt nhiên không có, mà được quan huyện chiếu cố những hai lần. Lẽ nào nín lặng mà coi đặng hay sao"
Bèn ra chợ mua cặp gà thiến đi biếu quan. Lúc gặp mặt, Sinh thấy Thăng là người phong nhã. Cốt cách thoát tục. Nghị luận lưu loát, lại biết người biết mình. Chớ không ỷ bạc vàng mà lấn lướt người ta, nên lấy làm thích lắm.
Qua tuần sau, Sinh dọn dẹp nhà cửa, rồi ra chợ mua con gà mái. Tự tay làm gỏi, đoạn mời Trình Thăng tới thưởng nguyệt ngắm hoa. Cho tình thêm gắn bó. Được đâu vài tuần rượu, Thăng mới cảm khái nói:
- Xét về niên kỷ. Ta lớn tuổi hơn, thì sao không xưng huynh đệ cho ngày thêm ấm cúng"
Sinh chần chừ chưa quyết. Thăng thấy vậy, mới tà tà nói tiếp:
- Dân. Quan, là ở chốn công đường, cần phải có để vỗ về bá tánh, đặng trăm họ yên vui. Còn nơi đây không phải quan nha, cũng chẳng phải chốn phồn hoa đô hội, mà là cõi riêng tư, là nhà của đệ, thì phép tắc mần chi cho thêm phần rối rắm.
Sinh nghe vậy, liền nhìn thẳng vào khuôn mặt của Thăng, nhận ra cả một trời chân thật, bèn khấp khởi trong lòng mà nghĩ tựa như ri:
- Cô dâu dù xấu tới đâu, cũng không thể không ra mắt cha mẹ chồng. Huống chi ta là hàng dân dã, mà được bậc cao sang hạ mình làm vậy, thì ngần ngại chi mà không tính!
Bèn hớn hở gọi Trình Thăng là huynh, xưng là tiểu đệ, rồi ngửa cổ ra mà uống. Được đâu vài chung. Sinh sảng khoái nói:
- Tiểu đệ rất thích khúc Hành phương nam. Nay trong lòng mừng vui tột độ, lại mát cả tâm can, nên gảy thử đôi khúc để tiếp hầu huynh trưởng.
Đoạn, lấy cây đàn gỗ ra mà gảy. Lúc khoan lúc nhặt, lúc mạnh lúc thưa. Lúc hùng tráng oai phong, lúc bi hùng thê thiết, khiến Thăng phê hổng biết bi nhiêu mà nói. Lúc Sinh gảy xong. Thăng mới chợt tỉnh mà nói rằng:
- Huynh đã đi nhiều nơi. Nghe nhiều chỗ, nhưng để đạt được… hỏa hầu như đệ thì huynh chưa thấy. Thiệt là quá đã.
Rồi với tay cầm ly rượu. Ực cho một phát. Hào sảng nói:
- Công danh cho lắm. Phú quý cho nhiều, mà không có được sự rung cảm để thưởng thức cái… khúc ni, thì chẳng thà dưa cháo qua hôm mà phê tới bờ tới bến.
Sinh nghe vậy, phớn phở cả tâm can. Lẹ miệng hỏi:
- Huynh cũng am tường về đàn. Có phải vậy chăng"
Thăng gật gù đáp:
- Không phải là sở trường của huynh, nhưng bình sinh vẫn thích.
Sinh liền vỗ tay lên đùi một cái đét. Mừng rỡ nói:
- Tri kỷ! Tri kỷ! Một khi đã coi nhau là tri kỷ, thì đến với nhau đâu chỉ một ngày. Sao không gảy vài khúc, để mở tầm nhìn. Chẳng đặng hơn ư"
Đoạn, bỏ một chút trầm… giả vào bình, rồi mời Thăng gảy một khúc. Lúc đàn địch đã xong. Sinh mới nói rằng:
- Đại cao thủ! Đại cao thủ. Tiếng nghe thánh thoát. Tuyệt thế xuất tục. Thôi thì đệ đành gảy thêm khúc Ngự phong, để tỏ lòng quý mên.
Ngày nọ, Thăng mời Sinh đến nhà thưởng thức hoa lan nở, luôn tiện đàn cho Sinh nghe khúc Tương phi vừa mới sáng tác. Tiếng nghe như u như oán. Như khóc như than. Như tan tành đứt đoạn. Lúc đàn xong. Thăng mới rầu rĩ nói rằng:- Đáng tiếc là không có cây đàn hay, nên âm điệu mới tàn tàn như vậy. Chớ mà đụng đồ thiệt, thì bảo đảm… bốc hổng biết bi nhiêu mà đếm!
Sinh nghe Thăng tỏ bày như vậy, liền buột miệng nói:
- Tiểu đệ có cây đàn cầm cổ. Không phải là thứ phàm trần. Nay gặp bạn thâm giao, thì chẳng phải cất dấu mần chi nữa!
Bèn cùng Thăng lên kiệu về nhà. Lấy đàn ra dạo, thì rõ là cương nhu đúng điệu. Xuất quỷ nhập thân. Thiệt chẳng biết phải tả làm sao cho đúng!
Tối ấy. Trống đã sang canh mà Thăng không tài chi ngủ được, bèn ra nhà sau pha cà phê ngồi uống. Bất chợt vợ là Lã thị đi tới. Nhỏ nhẹ nói rằng:
- Trời sanh ra anh làm quan, để nhìn đời theo con đường thẳng. Chớ không phải nghi ngờ dò xét ở những khúc quanh, đến độ ngủ không được, thì trước là lỗi đạo vua tôi. Sau với thê nhi cũng ôm phần thiếu sót.
Thăng ngước mắt nhìn vợ. Sửng sốt nói:
- Lỗi đạo vua tôi thì nghe được. Còn lỗi với vợ. Thể nào như vậy mà xảy được hay sao"
Lã thị nheo mắt đáp:
- Chàng trầm tư mặc tưởng. Đắm chìm trong nghĩ suy, nên không thấy cũng là thường tình trong thiên hạ.
Thăng rơi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Thắc mắc hỏi rằng:
- Nàng có thể vì tình mà đôi lời phân giải. Đặng hay chăng"
Lã thị gật gật mấy cái, rồi chắc nịch đáp:
- Đêm xuân đáng giá ngàn vàng. Chàng ngồi đây không ngủ, bỏ mặc… đêm xuân, thì đã phí phạm đến cả ngàn vàng, là cái sai thứ nhất. Đồng vợ đồng chồng, tát bể đông cũng cạn. Nay chàng trĩu nặng mối ưu tư, mà không lời san sẻ, thì có khác chi đồng sàng dị mộng, là cái sai thứ hai. Không biết giữ gìn sức khỏe, có khác gì quên lời hứa sống với vợ đến đầu bạc răng long, còn không kể số chi đến vợ với ngàn đêm đơn lẽ, là cái sai thứ ba. Gia đình là tổ ấm. Là nơi tránh bão táp phong ba. Là chốn mà sự bình an sẽ đong đầy tất cả. Nay chàng im lặng kiểu này, đã khiến cho bầu không khí nhuốm màu vẫn đục. Đánh mất nụ cười vui, thì hạnh phúc trăm năm mần răng sờ mó được, là cái sai thứ tư. Chàng là phụ mẫu chi dân. Trăm họ nhìn vào, mà đối xử với vợ hiền như vậy, thì trước là tạo gương xấu cho bà con. Sau bá tánh cũng coi thường phép nước, là cái sai thứ năm.
Rồi đưa tay đè lên ngực. Mạnh miệng nói:
- Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thân thì vụng tu. Gia thì vụng về. Quốc thì vụng trị, thì còn mơ tưởng đến… thiên hạ mần chi nữa!
Trình Thăng nghe tới đâu hết hồn theo tới đó. Mãi một lúc sau mới khổ nhọc nói rằng:
- Ta chưa hề mơ… thiên hạ, mà chỉ mong giữ được chút… quan này, để nàng có tiền bơm sửa. Mốt miếc nọ kia, đặng kéo dài xuân sắc.
Lã thị, mặt bỗng dịu lại, rồi ngước mắt nhìn chồng. Tha thiết nói:
- Chàng có tâm sự gì" Cứ thẳng thắn trút ra. Biết đâu thiếp sẽ giúp chàng thêm… đôi cánh.
Thăng thở dài thườn thượt, rồi chán nản đáp:
- Ta quen được Lý Sinh. Hắn có cây đàn cầm cổ thật tuyệt. Đáng là võ lâm chi bảo. Ta muốn sở hữu cây đàn đó, nhưng chưa biết làm sao, nên không tài nào nhắm mắt!
Lã thi lặng người đi một chút, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Thiếp có ba kế, có thể đưa đàn về nơi ở mới. Chàng có muốn nghe chăng"
Thăng nghe vợ nói như ngồi trên đống lửa. Bồn chồn đáp:
- Lời này mà không muốn nghe. Chẳng biết có còn… bình thường hay không nữa"
Lã thị liền đưa tay vuốt tóc một cái, rồi thủng thẳng nói:
- Giục đồ gian vô nhà người ta. Ghép vào tội phản quốc. Người thì đày đi khổ sai ở tận biên cương. Còn gia sản tịch thu đưa vào quốc khố, là hạ sách. Mời người ta đến nhà, đem đàn đến gảy, rồi phục rượu cho say, đoạn đem người ta bỏ vào phòng của thiếp, đoạn tri hô lên, thì dầu tính mạng được y nguyên, nhưng đồ vật phải lưu lại trong nhà của thiếp, là trung sách. Còn thượng sách, phải nhờ tới Lã Uyên Thi, là em út của thiếp. Tài sắc vẹn toàn, đang tuổi cập kê, nhưng chưa vừa ý đám nào hết cả. Nay mua một ít nước hoa và kem thoa mặt loại tốt, hối lộ cho dì, để đưa Lý Sinh vào con đường mê mệt, mà một khi tình đã lậm rồi, thì cả gia sản còn vui lòng đem bán. Hà huống cây đàn. Còn giữ được hay sao"
Thăng xanh mét cả mặt mày. Lắc đầu đáp:
- Hại người, lợi mình, thì hậu vận ngàn đêm u tối. Phục rượu rồi đổ oan cho người ta, để hiền thê mang tiếng, thì lòng ta không nỡ. Nhờ dì út đem nhan sắc mồi chài người ta, lỡ dì út thương thiệt, thì chẳng những đàn không lấy được, mà dì cũng… mất tiêu. Thiệt là khó tính!
- Cha tôi thuở sinh tiền thích đàn cầm. Nay giỗ chạp ba năm, mà có được cây đàn này đặt bên bài vị, thì trước là đặng nghĩa cha con. Sau ở suối xa cũng vơi bớt đôi phần đơn chiếc.
Bọn công nhân nghe Sinh nói vậy, liền bàn bạc cùng nhau, rồi một mạng đáp:
- Muốn gặt thì phải gieo. Muốn ăn phải lăn lưng vào bếp. Muốn hậu vận sáng ngời phải… đút lót cõi trên. Cho yên lòng yên trí.
Bèn tặng cây đàn cầm cho Sinh đem về cúng bố. Lúc đến nhà, Sinh lấy nước chanh trộn với tro, rồi nhúng giẻ mà lau. Chẳng mấy chốc đã ào lên bóng láng. Đã vậy lại lên dây gảy thử, thì thấy tiếng đàn trầm bổng thật hay, khó lòng chê được. Sinh mừng lắm, như bắt được vàng, bèn đến bên bài vị của cha khẩn cầu:
- Âm dương hai đàng cách biệt, nên đồ vật cõi này, không thể xài ở cõi kia. Vậy con sẽ vẽ chiếc đàn này lại - rồi nổi lửa tiễn đưa - thì ở phương xa cha mới ngồi chơi được.
Đoạn, lấy một vuông khăn bằng gấm. Đặt chiếc đàn cầm vào, gói lại rồi cất kỷ vào rương, cho bình tâm chắc cú. Đã vậy còn thì thào tự nhủ:
- Sống để bên mình. Chết bỏ mang theo. Quyết chẳng nhẹ dạ mà đi mần di chúc!
Ngày nọ, có Trình Thăng tới nhậm chức quan huyện. Nghe tiếng Sinh là người thạo về âm luật. Giỏi về đàn cầm, bèn sai người đưa danh thiếp đến vấn an. Chúc dồi dào sức khỏe. Lý Sinh. Vốn người trầm lặng, lại ít giao du, nên khi được danh thiếp của quan, liền suy nghĩ tùm lum tứ tán:
- Mình là dân, họ là quan, đã đôi đàng cách biệt, thì làm sao có thể thỏa tình cá nước, là một cái thua. Người ta mới đến nhậm chức, mà coi trọng mình làm vậy. Lỡ một mai mình đàn không hay nữa, hoặc lụm khụm đánh sai, thì không biết cái mạng nhỏ híu ni còn hay… mất trắng, là hai cái thua. Từ nào tới giờ mình sống đời thanh bạch. Dưa muối qua ngày. Nay lại đụng đến quan, thì tránh đâu cho khỏi miệng thế nhân nói: Thấy sang bắt quàng làm họ, là ba cái thua.
Người ta có quyền có thế trong tay, thì muốn xử muốn bắt lúc nào mà chẳng được, trong khi mình chỉ hàng dân dã. Bé miệng kêu ai" Là bốn cái thua. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Người ta có mời mình, thì nem công chả phượng chỉ là chuyện nhỏ, trong khi với mình lại là chuyện lớn. Chỉ đặng trong mơ, là năm cái thua. Với năm cái thua đó, thì mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, vẫn chắc hơn là qua lại với quan, rồi có ngày… đứt bóng!
Mấy ngày sau, quan huyện lại cho người đem danh thiếp tới, kèm theo chục cam sành đầu mùa, cùng mong sớm tương ngộ cùng nhau, cho thỏa tình mơ ước. Lý Sinh. Cho dầu ít giao du, nhưng với chân tình của Trình Thăng, cũng rúng động tâm can mà bảo dạ rằng:
- Ngày xưa Lưu Bị tam cố thảo lư, mới mời được Gia Cát Lượng rời bỏ lều tranh đặng giúp mình lên ngôi thiên tử. Còn ta. Tài thì chỉ gảy được đàn cầm. Tế thế kinh bang thì tuyệt nhiên không có, mà được quan huyện chiếu cố những hai lần. Lẽ nào nín lặng mà coi đặng hay sao"
Bèn ra chợ mua cặp gà thiến đi biếu quan. Lúc gặp mặt, Sinh thấy Thăng là người phong nhã. Cốt cách thoát tục. Nghị luận lưu loát, lại biết người biết mình. Chớ không ỷ bạc vàng mà lấn lướt người ta, nên lấy làm thích lắm.
Qua tuần sau, Sinh dọn dẹp nhà cửa, rồi ra chợ mua con gà mái. Tự tay làm gỏi, đoạn mời Trình Thăng tới thưởng nguyệt ngắm hoa. Cho tình thêm gắn bó. Được đâu vài tuần rượu, Thăng mới cảm khái nói:
- Xét về niên kỷ. Ta lớn tuổi hơn, thì sao không xưng huynh đệ cho ngày thêm ấm cúng"
Sinh chần chừ chưa quyết. Thăng thấy vậy, mới tà tà nói tiếp:
- Dân. Quan, là ở chốn công đường, cần phải có để vỗ về bá tánh, đặng trăm họ yên vui. Còn nơi đây không phải quan nha, cũng chẳng phải chốn phồn hoa đô hội, mà là cõi riêng tư, là nhà của đệ, thì phép tắc mần chi cho thêm phần rối rắm.
Sinh nghe vậy, liền nhìn thẳng vào khuôn mặt của Thăng, nhận ra cả một trời chân thật, bèn khấp khởi trong lòng mà nghĩ tựa như ri:
- Cô dâu dù xấu tới đâu, cũng không thể không ra mắt cha mẹ chồng. Huống chi ta là hàng dân dã, mà được bậc cao sang hạ mình làm vậy, thì ngần ngại chi mà không tính!
Bèn hớn hở gọi Trình Thăng là huynh, xưng là tiểu đệ, rồi ngửa cổ ra mà uống. Được đâu vài chung. Sinh sảng khoái nói:
- Tiểu đệ rất thích khúc Hành phương nam. Nay trong lòng mừng vui tột độ, lại mát cả tâm can, nên gảy thử đôi khúc để tiếp hầu huynh trưởng.
Đoạn, lấy cây đàn gỗ ra mà gảy. Lúc khoan lúc nhặt, lúc mạnh lúc thưa. Lúc hùng tráng oai phong, lúc bi hùng thê thiết, khiến Thăng phê hổng biết bi nhiêu mà nói. Lúc Sinh gảy xong. Thăng mới chợt tỉnh mà nói rằng:
- Huynh đã đi nhiều nơi. Nghe nhiều chỗ, nhưng để đạt được… hỏa hầu như đệ thì huynh chưa thấy. Thiệt là quá đã.
Rồi với tay cầm ly rượu. Ực cho một phát. Hào sảng nói:
- Công danh cho lắm. Phú quý cho nhiều, mà không có được sự rung cảm để thưởng thức cái… khúc ni, thì chẳng thà dưa cháo qua hôm mà phê tới bờ tới bến.
Sinh nghe vậy, phớn phở cả tâm can. Lẹ miệng hỏi:
- Huynh cũng am tường về đàn. Có phải vậy chăng"
Thăng gật gù đáp:
- Không phải là sở trường của huynh, nhưng bình sinh vẫn thích.
Sinh liền vỗ tay lên đùi một cái đét. Mừng rỡ nói:
- Tri kỷ! Tri kỷ! Một khi đã coi nhau là tri kỷ, thì đến với nhau đâu chỉ một ngày. Sao không gảy vài khúc, để mở tầm nhìn. Chẳng đặng hơn ư"
Đoạn, bỏ một chút trầm… giả vào bình, rồi mời Thăng gảy một khúc. Lúc đàn địch đã xong. Sinh mới nói rằng:
- Đại cao thủ! Đại cao thủ. Tiếng nghe thánh thoát. Tuyệt thế xuất tục. Thôi thì đệ đành gảy thêm khúc Ngự phong, để tỏ lòng quý mên.
Ngày nọ, Thăng mời Sinh đến nhà thưởng thức hoa lan nở, luôn tiện đàn cho Sinh nghe khúc Tương phi vừa mới sáng tác. Tiếng nghe như u như oán. Như khóc như than. Như tan tành đứt đoạn. Lúc đàn xong. Thăng mới rầu rĩ nói rằng:- Đáng tiếc là không có cây đàn hay, nên âm điệu mới tàn tàn như vậy. Chớ mà đụng đồ thiệt, thì bảo đảm… bốc hổng biết bi nhiêu mà đếm!
Sinh nghe Thăng tỏ bày như vậy, liền buột miệng nói:
- Tiểu đệ có cây đàn cầm cổ. Không phải là thứ phàm trần. Nay gặp bạn thâm giao, thì chẳng phải cất dấu mần chi nữa!
Bèn cùng Thăng lên kiệu về nhà. Lấy đàn ra dạo, thì rõ là cương nhu đúng điệu. Xuất quỷ nhập thân. Thiệt chẳng biết phải tả làm sao cho đúng!
Tối ấy. Trống đã sang canh mà Thăng không tài chi ngủ được, bèn ra nhà sau pha cà phê ngồi uống. Bất chợt vợ là Lã thị đi tới. Nhỏ nhẹ nói rằng:
- Trời sanh ra anh làm quan, để nhìn đời theo con đường thẳng. Chớ không phải nghi ngờ dò xét ở những khúc quanh, đến độ ngủ không được, thì trước là lỗi đạo vua tôi. Sau với thê nhi cũng ôm phần thiếu sót.
Thăng ngước mắt nhìn vợ. Sửng sốt nói:
- Lỗi đạo vua tôi thì nghe được. Còn lỗi với vợ. Thể nào như vậy mà xảy được hay sao"
Lã thị nheo mắt đáp:
- Chàng trầm tư mặc tưởng. Đắm chìm trong nghĩ suy, nên không thấy cũng là thường tình trong thiên hạ.
Thăng rơi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Thắc mắc hỏi rằng:
- Nàng có thể vì tình mà đôi lời phân giải. Đặng hay chăng"
Lã thị gật gật mấy cái, rồi chắc nịch đáp:
- Đêm xuân đáng giá ngàn vàng. Chàng ngồi đây không ngủ, bỏ mặc… đêm xuân, thì đã phí phạm đến cả ngàn vàng, là cái sai thứ nhất. Đồng vợ đồng chồng, tát bể đông cũng cạn. Nay chàng trĩu nặng mối ưu tư, mà không lời san sẻ, thì có khác chi đồng sàng dị mộng, là cái sai thứ hai. Không biết giữ gìn sức khỏe, có khác gì quên lời hứa sống với vợ đến đầu bạc răng long, còn không kể số chi đến vợ với ngàn đêm đơn lẽ, là cái sai thứ ba. Gia đình là tổ ấm. Là nơi tránh bão táp phong ba. Là chốn mà sự bình an sẽ đong đầy tất cả. Nay chàng im lặng kiểu này, đã khiến cho bầu không khí nhuốm màu vẫn đục. Đánh mất nụ cười vui, thì hạnh phúc trăm năm mần răng sờ mó được, là cái sai thứ tư. Chàng là phụ mẫu chi dân. Trăm họ nhìn vào, mà đối xử với vợ hiền như vậy, thì trước là tạo gương xấu cho bà con. Sau bá tánh cũng coi thường phép nước, là cái sai thứ năm.
Rồi đưa tay đè lên ngực. Mạnh miệng nói:
- Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thân thì vụng tu. Gia thì vụng về. Quốc thì vụng trị, thì còn mơ tưởng đến… thiên hạ mần chi nữa!
Trình Thăng nghe tới đâu hết hồn theo tới đó. Mãi một lúc sau mới khổ nhọc nói rằng:
- Ta chưa hề mơ… thiên hạ, mà chỉ mong giữ được chút… quan này, để nàng có tiền bơm sửa. Mốt miếc nọ kia, đặng kéo dài xuân sắc.
Lã thị, mặt bỗng dịu lại, rồi ngước mắt nhìn chồng. Tha thiết nói:
- Chàng có tâm sự gì" Cứ thẳng thắn trút ra. Biết đâu thiếp sẽ giúp chàng thêm… đôi cánh.
Thăng thở dài thườn thượt, rồi chán nản đáp:
- Ta quen được Lý Sinh. Hắn có cây đàn cầm cổ thật tuyệt. Đáng là võ lâm chi bảo. Ta muốn sở hữu cây đàn đó, nhưng chưa biết làm sao, nên không tài nào nhắm mắt!
Lã thi lặng người đi một chút, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Thiếp có ba kế, có thể đưa đàn về nơi ở mới. Chàng có muốn nghe chăng"
Thăng nghe vợ nói như ngồi trên đống lửa. Bồn chồn đáp:
- Lời này mà không muốn nghe. Chẳng biết có còn… bình thường hay không nữa"
Lã thị liền đưa tay vuốt tóc một cái, rồi thủng thẳng nói:
- Giục đồ gian vô nhà người ta. Ghép vào tội phản quốc. Người thì đày đi khổ sai ở tận biên cương. Còn gia sản tịch thu đưa vào quốc khố, là hạ sách. Mời người ta đến nhà, đem đàn đến gảy, rồi phục rượu cho say, đoạn đem người ta bỏ vào phòng của thiếp, đoạn tri hô lên, thì dầu tính mạng được y nguyên, nhưng đồ vật phải lưu lại trong nhà của thiếp, là trung sách. Còn thượng sách, phải nhờ tới Lã Uyên Thi, là em út của thiếp. Tài sắc vẹn toàn, đang tuổi cập kê, nhưng chưa vừa ý đám nào hết cả. Nay mua một ít nước hoa và kem thoa mặt loại tốt, hối lộ cho dì, để đưa Lý Sinh vào con đường mê mệt, mà một khi tình đã lậm rồi, thì cả gia sản còn vui lòng đem bán. Hà huống cây đàn. Còn giữ được hay sao"
Thăng xanh mét cả mặt mày. Lắc đầu đáp:
- Hại người, lợi mình, thì hậu vận ngàn đêm u tối. Phục rượu rồi đổ oan cho người ta, để hiền thê mang tiếng, thì lòng ta không nỡ. Nhờ dì út đem nhan sắc mồi chài người ta, lỡ dì út thương thiệt, thì chẳng những đàn không lấy được, mà dì cũng… mất tiêu. Thiệt là khó tính!
Gửi ý kiến của bạn