Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

08/11/200900:00:00(Xem: 4108)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Bây giờ Lộc đã thấy thái độ không bình thường của tôi, Lộc còn cười, nói như đùa trêu tôi:
- Mặt anh làm gì mà thất sắc thế! Làm như cô Vân là bồ của anh không bằng!...
Tôi đứng dậy trả tiền, kéo Lộc ra mé đường, tôi muốn rủ Lộc về nhà tôi chơi để hỏi thêm chi tiết, phần vì cũng gần tối đến giờ trình diện, và còn phải mua thuốc kịp cho mẹ. Lộc nói là Lộc về Bắc chuyến tầu Thống Nhất chiều mai, Lộc hiện đang ở nhà một người quen bên Khánh Hội. Tôi cứ khẩn khoản bảo Lộc ngồi lên yên, tôi "đèo" đi mua thuốc cho mẹ. Chơi với tôi, khoảng 9 giờ tôi sẽ mang Lộc về Khánh Hội.
Tôi ngấu nghiến đạp xe, mua thuốc rồi về, mới 6: 30 đã tới nhà. Trên đường tôi đã cho Lộc biết sơ qua cảnh sống của tôi. Lộc lại tỏ ra thương cảm, chia xẻ với tôi hơn, tôi chỉ có 4 đồng, trả tiền nước mía hết 2 đồng chỉ còn 2 đồng, tôi đành mua hai qủa trứng vịt 1 đồng 50 để bác trứng, có rau muống luộc nữa, thế là hơn trong tù rồi. Bố mẹ tôi đã ăn cơm từ chiều. Tôi chỉ cho Lộc bếp núc, rồi tôi lấy cuốn vở sang nhà cô Mỹ Lệ ở xóm bên, trình diện. Gạo hãy còn nhiều, hai chục ký, thằng Lợi cho đã ăn hết đâu.
Hai mươi ba: Người ấy đã sang đò!
Trên đường đi xe, tôi đã được biết sơ lược: Vì Lộc không biết gì giữa tôi và cô Vân, nên cũng chẳng hỏi kỹ ông Võ. Chỉ biết cô Vân đã lấy chồng cuối năm 1969, HCM chết xong thì cô Vân đám cưới với một Trung úy bộ đội đi B. Hiện nay cô đã có một con trai 6 - 7 tuổi, Lộc cũng không nói chuyện với cô Vân, ngay ông Võ, Lộc cũng không biết địa chỉ.
Tôi trình diện CA về, thì Lộc cũng đã nấu xong cơm, tôi hì hục bác trứng và luộc tí rau muống, đã mua từ hôm qua. Hai anh em ăn cơm ở sàn trên gác, chỉ có trứng bác và rau muống luộc, nhưng thật đậm đà nghĩa tình trong khó khăn cuộc sống, của những người đi tù về.
Phần tôi vẫn thèm, nhớ tiếng hát của Lộc vàng nhất là lòng tôi đang nát nhão, như dưa khú lâu ngày. Tôi đã cho Lộc biết sơ sơ một chút sự liên hệ giữa tôi và cô Vân. Sau khi cơm nước xong, Lộc đã nho nhỏ hát tặng tôi một bài trên căn gác trống, không có đàn, trống. Tôi đã nằm lịm đi để mặc cho giọng hát truyền cảm của Lộc, chui luồn vào cơ thể, rúc vào hồn tôi. Theo Lộc, đây là bài: Lá Đổ Muôn Chiều, nhạc của Đoàn Chuẩn, lời Từ Linh....
Lộc vàng đã đập vào chân tôi, dù tôi không ngủ, nhưng tôi như vừa ở một vùng đầy sương khói chui ra. Một ý thơ của T.T.KH hãy còn già một nửa ở trong đầu: Nếu biết rằng tôi.... đã... lấy chồng! Trời ơi! người ấy có... buồn không"...
Bao nhiêu ngược xuôi, ngang dọc rối rắm trong đầu, tôi thừa nhận cô Vân lấy chồng là đúng, là hợp lý, vậy mà tại sao, tôi vẫn buồn" Lộc nói, mà mắt nhìn tôi như nài nỉ:
- Anh đưa em về đi, kẻo khuya!
Tôi muốn Lộc ngủ lại với tôi đêm nay, nhưng Lộc cũng đã hiểu. Bất ngờ lũ Nặc - Nô CA lại vào khám nhà. Hai bên đều tự hiểu, tôi đứng dậy đưa Lộc về Khánh Hội. Bố mẹ tôi đã nằm yên ở trong màn, tôi cũng cần về sớm, sợ chúng vào lúc tôi không có nhà. Chiều theo ý của Lộc, tôi đạp xe theo đường Công Lý để Lộc nhìn Dinh Độc Lập một lần. Mới khoảng hơn 9 giờ mà Sài Gòn đã đìu hiu vắng vẻ.
Bao nhiêu năm xa vắng, tôi nhìn Dinh Độc Lập tận mắt, niềm ước mơ, niềm khắc khoải nhớ thương, thế mà tâm trạng của tôi chỉ thấy rửng rưng, quấn quít một chút xót xa. Nhìn tòa nhà từ xa, dưới ánh đèn đêm của thành phố, tôi có cảm tưởng như nét mặt của thầy tôi. Chiếc cửa sổ chiếu ánh đèn lờ mờ như đôi mắt kèm nhèm, cửa to phía dưới như cái miệng của thầy tôi méo xệu, trong đêm CA vào khám nhà. Đã đạp xe qua rồi, mà đầu tôi còn ngoái lại; đúng nét mặt thiểu não của thầy tôi, cụ cũng đã lẩn thẩn rồi!
Đến một xóm nghèo phía bên kia cầu Khánh Hội. Một cái ôm khắng khít chia tay với Lộc, không hẹn ngày gặp lại. Nét mặt của Lộc, cũng thiểu não như nét mặt của thầy tôi khi nãy đi qua, Lộc đã giúi vào túi tôi 10 đồng. Tôi hiểu Lộc muốn chia xẻ với cảnh đời rách mướp của tôi lúc này, nhưng tôi đã cương quyết không nhận! Phần vì chính cảnh sống của Lộc cũng chỉ là một cái "sơ mướp", phần khác, dù tôi đang gặp khó khăn thế này, hay rồi đây sẽ hơn nhiều thế nữa, tôi vẫn đứng bằng chính đôi chân của tôi. Tôi đã trả lại Lộc, những người cùng khổ có lòng và một cái ôm chặt nữa, để chia tay.
Hôm sau, buổi sáng tôi không làm sao bò dậy được, miệng khô đắng như cho giấy vào thấm, đã đến giờ ra tổ Mành Trúc, nhưng tôi cố mãi vẫn chưa ngồi được lên. Phải ra báo và xin phép nghỉ một ngày, nhưng tôi đành nằm liệt, thế mà khoảng 9 giờ, cô ả Mỹ Lệ đã mò đến gõ cửa. Tôi nghe tiếng của thầy tôi nói, không thành câu:
- Thằng Bình ốm... trên gác!
Tôi nghe tiếng chân khe khẽ, nhè nhẹ bước lên thang gác! Cô "ả" này liều thật! Nếu mặt cô ả không phải là qủa cà ghém luộc" Và nếu tôi không có định kiến "ghét" từ hôm đầu gặp "ả", thì cơ hội này, sẽ có một câu chuyện của cuộc đời.
Một giọng êm nhẹ, khác với mọi khi:
- Anh Bình!
Tôi cứ nằm im trong màn, xem sao"
Tiếng bước chân nhè nhẹ trên sàn gác, rồi chiếc màn tôi nhúc nhích: Đúng là coi "trời bằng vung". Cô ả lưỡng lự, dùng dằng một lúc, rồi cô bước chân rón rén đi xuống nhà. Cho đến khi nghe tiếng chốt cửa của thầy tôi, một ý tưởng không thực tế len lỏi vào đầu: Giá đấy là cô Vân. Tôi cong hai chân bật người dậy theo thói quen, xuống đến dưới nhà nghe tiếng mẹ tôi ở, trong màn:
- Con đã uống thuốc gì chưa"
Thầy tôi cũng đã chui ra khỏi màn, để thầy mẹ tôi yên lòng, tôi nói cố ra vẻ bình thường:
- Con không có sao đâu!
Mấy hôm trước cô Thu, đã đưa sang hơn một chục ký gạo và một nải chuối. Tôi phải sắp xếp dọn dẹp trong nhà, khi còn ở trong tù, tưởng như không có ngày về thì mơ ước, thèm khát được làm những công việc này, để phụng dưỡng đấng sinh thành. Bây giờ có, lại coi thường! Không thấy đó là một điều may mắn, sung sướng" Tâm lý của con người cũng kỳ lạ!
Tôi chợt nhớ đến thằng Đạt, từ cái dạo tôi mới về thằng Lợi đã cho tôi biết sơ về Đạt. Tôi cũng xin sơ lược về Đạt.
Thời gian 1955-1956 tôi chạy Bình Xuyên, lên sống ở trại định cư Hà Nội Hố Nai Biên Hòa. Ở đây, tôi đã quen Nguyễn Hữu Lợi và Nguyễn Đức Đạt, tôi với Đạt cũng chơi thân, nhưng không thân bằng Lợi với tôi. Bố của Đạt làm về bưu điện ở ngoài Bắc, bây giờ di cư vào Nam, già yếu về hưu.


Một số cậu thanh niên Hà Nội ở trại chơi với nhau, trong đó có Lợi, Đạt và tôi. Khi tôi đi Bắc, cậu nào cũng còn độc thân. Khi tôi trở về thì Nguyễn Hữu Lợi đã có gia đình (tôi đã tường thuật trên), còn thằng Nguyễn Đức Đạt, nghe vợ chồng Lợi nói: Thằng Đạt có cái tú tài đôi, đã theo nghề bố, thi vào ngạch bưu điện. Thời gian Mỹ ồ ạt vào miền Nam, Sài Gòn cũng "cuốn theo chiều gió" thằng Đạt nghe đâu đã làm trưởng phòng nhân viên "bở béo" ngay bưu điện trung ương ở Sài Gòn (cạnh nhà thờ chính tòa). Hiện nay vợ con gia đình Đạt đang ở Trương Tấn Bửu, còn vì sao gia đình nó lại không đi di tản, tôi sẽ đến thăm gia đình, và hỏi trực tiếp nó.
Lợi dụng ngày hôm nay (không đến tổ mành trúc), tôi chuẩn bị lo nhà cửa cho bố mẹ xong, xách xe đạp, tôi sang tìm nhà thằng Đạt. Sau một lúc mò mẫm, tôi đã đứng trước nhà của Đạt, thoáng qua một vài nét bên ngoài cũng là loại khá giả, nhưng không bằng thằng Lợi. Tôi bấm chuông đứng chờ, qua vợ chồng Lợi, nên Đạt và tôi không có cái bất ngờ gặp lại. Ngày xưa cậu trưởng phòng này, nọ; giờ đây đang ngồi đút cơm cho đứa con út, giúp vợ, giữ nhà. Đạt rất vui, gọi cả vợ con trên gác xuống giới thiệu, anh chị Đạt được năm sáu đứa con, đứa con gái lớn cũng 17 tuổi, con trai kế tiếp là Nguyễn Vạn Thắng 15 tuổi.
Vợ chồng Đạt cứ ríu rít định làm cơm ăn bữa chiều, tôi đã hiểu dưới chế độ "tem phiếu" nên tôi dứt khoát từ chối, lý do phải về trông nom ông bà cụ v.v… Ngay từ ngày tôi chưa đi Bắc, Đạt vẫn mến nể tôi, nhất là về mặt ngang tàng coi nguy hiểm là chuyện bình thường.
Do đấy, khi ở phòng khách chỉ có Đạt và tôi, tôi đã hỏi Đạt, có rào đón. Chính tôi cũng muốn biết tâm trạng, sự hiểu biết của một người có tú tài đôi, đã từng là một trưởng phòng ở Sài Gòn, cũng đã tiếp xúc nhiều với bạn bè Mỹ, Việt v.v… nên tôi đã ngửng lên hỏi:
- Đạt ơi! Bây giờ tao hỏi mày, với lòng tự trọng, trả lời những suy nghĩ thực mày đang nghĩ. Mày có đồng ý như thế không"
Mặt Đạt ngẩng lên tỏ ra, rất chân thành:
- Mày hỏi gì tao cũng nói sự thật!
Thấy đã đủ để biết rõ vấn đề, tôi hỏi ngay:
- Lý do chính, vì sao gia đình mày không đi di tản"
Thằng Đạt, cái mặt chảy dài, đứng hẳn dậy, nói như còn phẫn uất:
- Cái số của tao, chỉ vì vợ tao khi đó đang chửa đứa thứ tư, bố tao lại đang ốm nặng. Ngày 27- 4, thằng Ted Folk, trung uý Hải Quân, quen thân gia đình tao, nói hai ba lần, tao vẫn dứt khoát không đi. Ngập ngừng một chút, nhìn qua cửa sổ rồi quay lại, tỏ ra thành khẩn: Thực sự khi ấy tao còn tiếc cái nhà này, và đi như vậy, sẽ không biết thế nào. Người ta bảo: "xẩy nhà ra thất nghiệp".
Để cho cạn lý, tôi gặng hỏi tiếp:
- Mày nghĩ kỹ lại đi, còn một lý do nào nữa, để mày không đi"
Nó nhìn tôi chăm chú, và lắc đầu. Vào thời gian ấy (1980- 1981), vượt biên bị lừa lọc, bị chết cao nhất. Tôi nhớ có một chiếc tầu ở ngoài Cấp bị vỡ, đắm chết hơn 300 người. Khu Ông Tạ, Tân Bình hầu như nhiều nhà phải để tang ngầm. Tôi thấy thằng Đạt cứ lúng túng, tìm nhiều lý do để bảo vệ, Đạt chưa nhìn thấy cái nguyên nhân chính, vì thế tôi đặt một câu hỏi nữa cho sáng vấn đề. Trước khi hỏi, tôi vẫn phải ràng lại; bây giờ tao hỏi thật mày một câu, mà cũng nói thực lòng mày:
- Nếu bây giờ có một chiếc tầu của Mỹ đến cảng Bạch Đằng, mày phải bỏ hết tất cả, cả vợ con, nhà cửa, bố mẹ, chỉ được mặc một chiếc quần đùi, tầu sẽ đón đi, mày có đi không"
Đạt tươi hẳn mặt, nói qủa quyết:
- Đi, đi chứ! Tao đi ngay!
Tôi thong thả nói rành rọt:
- Như thế, tất cả những lý do mày nói, đều là sai cả! Cái nguyên nhân chính mày không nhìn thấy, hoặc chỉ nhìn thấy mập mờ, để mày và gia đình không đi di tản ngày 30/4/1975 là khi ấy mày chưa nhìn rõ CS. Mày không ngờ CS đểu giả, sắt thép, nham hiểm như bây giờ!
Mặt thằng Đạt lại đực ra, đầu gật gật, miệng còn nói như nhắc lại:
- Tao không ngờ nó độc hiểm, sắt máu như vậy!
Tôi phải nói chút nữa cho trọn ý:
- Mày nhớ, ông cụ (bố của Đạt) và mày, đã từng ở khu 3 (Việt Minh) về thành 1950 (vào Hà Nội). Đã di cư vào miền Nam 1954, mà còn mơ hồ, chưa nhìn rõ sự việc. Huống chi hầu hết đồng bào ở miền Nam. Chưa một ngày sống với CS, và nếu có biết về CS cũng chỉ qua sách báo, thì làm sao hiểu được cái tim đen của họ. Anh còn vũ khí, anh còn tiền, anh còn bên ngoài vòng kìm tỏa của họ, anh đừng vội vỗ ngực, tự đắc: Tao còn đi guốc vào những lừa lọc, thủ đoạn của CS. Chưa đâu! Khi nào anh đã hạ vũ khí cất đi, anh hết tiền, anh đã vào trong sự kìm tỏa của CS. Khi đó anh mới hiểu tim đen của CS, mà một khi anh đã hiểu, đã đủ hiểu thì anh không còn làm gì được CS nữa.

Hai mươi bốn: Giăng lưới bắt tôm

Đã chiều muộn, tôi từ giã anh chị Đạt để về nhà, chuẩn bị đi trình diện CA. Về đến nhà, ngạc nhiên, tôi thấy một chiếc xe đạp dựng khóa phía ngoài cửa, thì ra anh chàng Lê Văn Bưởi, cũng là điệp viên ra Bắc cá lẻ như tôi (Thép Đen III). Anh bị án 20 năm, nhưng lại được về trước tôi. Anh ở trên khu Đắc Lộ; tôi và anh đã gặp nhau một lần, giống như anh Bạch. Anh Bưởi đang sống nhờ một gia đình có cái xưởng lán làm gỗ, anh sống lai rai giúp việc nhà cho một người, còn có chút tấm lòng bao dung những kẻ khốn cùng.
Ngoài những chuyện bình thường, anh ghé vào tai tôi thì thầm: "CIA đã bắt mối liên lạc với anh, có thể họ sẽ đón anh đi một ngày gần đây".
Hoàn cảnh của tôi như một người sắp chết đuối, không có điều kiện nào để bơi nữa, thấy bất cứ vật gì nổi cũng đều bám, hy vọng sống được. Một chút mặc cảm vấn vít vào vị thế nhỏ bé của mình, anh Bưởi đã tâm sự với tôi từ buổi đầu gặp nhau ở phân trại E, phố Lu Lào Cai 1968. Anh là loại tình báo chiến lược, loại cấp cao của VNCH. Mình chỉ là loại tép riu chiến thuật, nên Mỹ đâu có để ý gì đến! Lòng nghĩ như thế, nhưng cuộc sống của tôi bị nhiều dồn ép, nghẹt thở qúa nên tôi đã xuống nước, nói với anh Bưởi:
- Nếu anh đi được, nhớ đừng quên tôi đang bơi lội, trong sình lầy nhé!
Anh Bưởi nhìn tôi với ánh mắt chia xẻ: "Bình yên tâm, tôi không thể quên Bình đâu!"
Tuy nghe anh Bưởi nói thế, nhưng đầu tôi lại lóe lên một ý: Biết đâu, đây chỉ là một đòn hiểm của CS" Mình là loại do áp lực của Quốc Tế, của dư luận. CS thả về để làm chiếc loa "không công" cho CS, chứ cộng sản không tha do thực lòng họ. Như vậy sớm muộn, nó sẽ cố tìm cớ để bắt lại, hoặc sẽ tạo điều kiện, bầy ra một hình thức khác, để bắt mình về tội hình sự. Có khi còn làm mai một hết những năm tháng tù đày, về chống cộng sản của mình. Nghĩ như thế, tôi quay lại tỏ ra bình thường nói chuyện, hơi một chút trầm trồ:
- Làm sao anh lại biết đấy là đường dây của CIA" Họ là loại người nào" Họ đến với anh ra sao"
Anh Bưởi đã biết tôi, không có cơ sở thì làm sao tôi tin, mắt anh liếc nhìn hai phiá, rồi ngồi gần lại tôi:
- Là một anh Xích - lô bình thường, họ còn hỏi tôi: Cuộc sống có khó khăn lắm không" Có thể lần gặp tới, họ sẽ cho một hai cây vàng!
Tôi hỏi liền:
- Khi nào lần gặp kỳ tới"
- Sáng thứ Tư này!
Vì có chủ trương nên tôi hỏi rõ:
- Mấy giờ và ở đâu"
- 10 giờ sáng ở bùng binh, chợ Bến Thành!
Để biết rõ sự thật, và cũng để một con mắt cho sự việc của anh Bưởi có an toàn không" Ngày mai tôi sẽ ngoan ngoãn đi làm tổ mành trúc, chiều mai (Thứ Ba) sẽ báo cáo ông Bằng, tôi xin đi khám bệnh nơi một ông lang trên Ngã Bẩy sáng thứ Tư, tôi sẽ đi làm buổi chiều.
Hôm sau tôi dậy thật sớm, từ 6 giờ, tôi đã có tính, nếu không làm thì thôi, nếu đã định làm thì đừng tiếc công, dù có thiệt thòi hay mệt nhọc hơn, tôi chấp nhận. Để đạt những điều mình muốn, để không than trách tiếc nuối bỏ lỡ công việc do mình lười, lỗi chính do mình.
Tôi tính anh Bưởi có hẹn 10 giờ, có thể anh Bưởi từ nhà đi sớm từ 9 giờ, nhỡ đi việc khác nữa, anh rời nhà ngay 8 giờ sáng thì sao" Vậy phòng hờ cao, là 7 giờ tôi đã có mặt ở phía trước cửa nhà anh rồi.
Tôi đứng từ một chỗ xa, cách cái cửa lán mộc nơi anh Bưởi đang ở hơn 100 mét. Trong một chỗ khuất nẻo thuận tiện, để nếu anh Bưởi ra, tôi phải biết. Lấy một nắm cơm nếp từ hôm kia cô Xuân mang biếu thầy mẹ, chưa ăn hết trong túi. Miệng nhai miếng cơm nếp vừa cứng, vừa hơi có mùi, mắt nhìn lên bầu trời sớm mai của khu Đắc Lộ. Mãi phía Tây, phía có dòng sông Sài Gòn, hơn một chục con Hải Âu, hay vịt trời cứ vòng quanh chao đảo đuổi nhau, không hiểu chúng đùa vui, hay đang săn đuổi bắt những côn trùng trong không khí"
Mặt trời còn chưa bò dậy mà da trời đã như một cánh buồm xanh mát mắt, chỉ có ba cụm mây nhỏ trăng trắng, cảm tưởng như một bà tiên vừa bưng một rổ bông gòn đi qua để vương vãi. Nếu ở gần, tôi chẳng tiếc công, đến nhặt hết cho cái màu xanh dịu êm ấy, nó êm dịu hơn. (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.