Hôm nay,  

Tháng Tư Việt Nam - Tháng Tư Iraq

07/05/200400:00:00(Xem: 4662)
Một việc cực khó trong đời có lẽ là triệt thoái. Vào ngày 30 tháng Tư này, nói đến triệt thoái, chúng ta đều không quên được kinh nghiệm của miền Nam Việt Nam.
Ông ta là người có mặt và bố trí cho một cuộc triệt thoái xảy ra trước đó, tháng Tám năm 1974. Đang làm Đại sứ Mỹ tại Minh ước Bắc Đại Tây Dương NATO ở Bruxelles, ông ta được triệu về thủ đô Washington làm Chủ tịch Ủy ban Bàn giao công vụ từ chính quyền Richard Nixon (vị tổng thống vừa nhục nhã từ chức vì vụ Watergate) qua chính quyền của Tổng thống chỉ định Gerald Ford. Đó là một cuộc triệt thoái trong không khí ảm đạm của đảng Cộng hòa. Donald Rumsfeld mỹ mãn hoàn thành nhiệm vụ tế nhị đó và được mời làm Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống (Chief of Staff) cho Tổng thống Ford.
Lần triệt thoái thứ nhì là khi ông làm Tổng trưởng Quốc phòng thứ 13, vị tổng trưởng trẻ nhất trong lịch sử quốc phòng Mỹ, năm đó, ông mới 43 tuổi. Năm đó, nước Mỹ cuốn cờ tại Việt Nam. Cầm đầu một bộ có trách nhiệm lớn nhất trong một cuộc chiến dài nhất và kết thúc bằng sự thảm bại nhục nhã nhất của Mỹ, Donald Rumsfeld phải ra sức cải tổ lại bộ này, và nhất là xây dựng lại một tinh thần tích cực giữa không khí bi quan và chua chát của nhiều người. Năm 1977, ông được huân chương cao quý nhất của Tổng thống nhờ thành tích cải tổ Bộ Quốc phòng, từ 1975 đến 1977.
Hai mươi lăm năm sau, Donald Rumsfeld lại trở về bộ Quốc phòng, làm vị Tổng trưởng thứ 21, một tổng trưởng già nhất trong lịch sử quốc phòng Mỹ, khi đã 68 tuổi. Lần này, ông không phải giải quyết việc triệt thoái mà ngược lại, chuẩn bị hệ thống quốc phòng Mỹ cho thế kỷ 21. Và ông mở ra hai cuộc chiến - hai “chiến dịch”, nói theo lý luận của chính quyền George W. Bush - tại Á Phú Hãn và tại Iraq. Hai chiến dịch trong trận chiến toàn cầu chống khủng bố. Lần này, ông đã nghiền ngẫm thấu đáo bài học Việt Nam của 25 năm trước.
Những ai cứ dọa Mỹ sẽ lại sa lầy tại A Phú Hãn hay Iraq như đã từng sa lầy ở Việt Nam là chưa hiểu gì về Rumsfeld. Là Tổng trưởng Quốc phòng trẻ nhất của Mỹ, ông hiểu chuyện Việt Nam vào tháng Tư 1975 khi phải thu dọn chiến trường và tự hỏi vì sao bại trận. Là Tổng trưởng Quốc phòng cao niên nhất của lịch sử Mỹ, ông rút tỉa bài học Việt Nam và giải quyết chiến cuộc Iraq vào tháng Tư 2003 tựa một phù thủy.
Năm xưa, người Pháp đã từng đứng trên chiến lũy Maginot, mũi súng hướng về phía trước và chờ đợi kẻ thù sẽ gục ngã trước mặt. Họ đánh một trận chiến đã kết thúc từ lâu, nên bị quân Đức cho nếm mùi thảm bại sau 55 ngày tấn công. Duy có những người đứng trên chiến lũy Maginot thì vẫn chưa hiểu gì. Ngày nay, Hà Nội cũng có những ông tướng lép bép như pháo tép trên chiến lũy Maginot, rằng Mỹ sẽ lại thua như đã từng thua ở Việt Nam. Đọc tin báo chí trong nước về chiến cuộc Iraq, thì người ta có cảm tưởng như Hà Nội đang nói về một trận chiến khác, hoặc đang tiếp vận cho Radio Baghdad.
Donald Rumsfeld sinh năm 1932 tại Chicago, tiểu bang Illinois, ông được học bổng tốt nghiệp Cử nhân tại Princeton. Ông là tay đấu vật có hạng, nhưng giấc mơ Thế vận hội của ông tan tành vì một thương tích ở vai; ông nhập ngũ, thành phi công rồi huấn luyện viên phi công trong binh chủng Hải quân từ 1954 đến 1957 (và vẫn làm sĩ quan trừ bị cho đến năm 1989 với cấp bậc Đại úy sau khi đã là Tổng trưởng Quốc phòng). Năm 1957, Rumsfeld vào thủ đô Washington làm thư ký cho một dân biểu và năm 1962 ra ứng cử Dân biểu năm rồi tái đắc cử liên tục trong các năm 1964, 1966, 1968 cho đến khi được Nixon mời về làm cố vấn về kinh tế năm 1971 rồi đại sứ tại NATO. Rời chính quyền năm 1977, Donald Rumsfeld bước qua doanh trường và thành công lớn trong việc chấn chỉnh những doanh nghiệp sa sút và được bầu làm Tổng quản trị xuất sắc nhất trong năm 1980 về kỹ nghệ dược phẩm. Nhưng, dù là một doanh gia thượng thặng, ông tiếp tục sinh hoạt trong các ủy ban hay hội đồng cố vấn về kinh tế hay quốc phòng cho đến năm 2000 thì được George W. Bush mời về làm Tổng trưởng Quốc phòng.
Khi vụ khủng bố 9-11 xảy ra và Ngũ giác đài bị tấn công, Rumsfeld là người xông ra khỏi bàn giấy và nhào xuống cấp cứu các nạn nhân, khiến nhân viên trong bộ Quốc phòng rất cảm kích và kính nể. Đồng thời, ông cũng là người bình tĩnh nhất trong nội các, khi chuẩn bị hồ sơ đối phó với khủng bố, trong các phiên họp sẽ làm thay đổi nước Mỹ và thế giới sau này.
Các diễn đàn phản chiến thường trình bày sai lạc sự việc, có khi còn hàm ý xuyên tạc (“Rumsfeld đã dàn cảnh ra vụ khủng bố 9-11 để có lý do tấn công Iraq” - một diễn đàn của Pháp viết như vậy, chỉ vì ông đoán trước vụ này với mức độ chính xác đáng ngờ!) Thực ra, Donald Rumsfeld có nói đến nhu cầu xử lý vụ Iraq ngay từ đầu năm 1998 vì chế độ Saddam Hussein tiếp tục vi phạm các nghị quyết của Liên hiệp quốc, tiếp tục sản xuất và phổ biến võ khí tàn sát và đe dọa an ninh của Mỹ. Tháng Hai năm 1998, trong một lá thư ngỏ, 40 nhân vật am hiểu về an ninh và đối ngoại, kể cả đảng Dân chủ, đã đề nghị lật đổ chế độ Saddam Hussein và xây dựng lại một cơ chế thực sự dân chủ tại Iraq theo một kế hoạch có chín bước tuần tự. Nhưng Tổng thống Bill Clinton từ chối lời đề nghị đó. Ngày nay, ta đang thấy từng phần của chín bước này...

Khi mời Donald Rumsfeld làm Tổng trưởng Quốc phòng, dĩ nhiên Tổng thống Bush đã biết quan điểm của ông về vụ Iraq, mà còn muốn ông cải tổ lại bộ Quốc phòng, từ tổ chức đến chủ thuyết và lý luận. Ngày nay, bộ tham mưu đối ngoại của ông Bush, kể cả Ngoại trưởng Colin Powell lẫn Cố vấn An ninh Quốc gia Condoleezza Rice hay Thứ trưởng Quốc phòng Paul Wolfowitz, ba người theo ba xu hướng, còn muốn đi xa hơn một chủ thuyết về quân sự để nói đến việc chủ động phát triển dân chủ trên thế giới hầu ngăn ngừa những bất mãn và bạo động trong các nước nằm dưới ách độc tài.
Điều đó phải làm người Việt chúng ta suy nghĩ.
Rút tỉa kinh nghiệm của chiến tranh Việt Nam, năm 1984, Tổng trưởng Quốc phòng thời Ronald Reagan là Caspar Weinberger đã lập ra một chủ thuyết về sự can thiệp quân sự của Mỹ, mà truyền thông Mỹ gọi lầm là “chủ thuyết Powell” vì Colin Powell lúc đó làm Tổng tham mưu trưởng dưới quyền Weinberger. Tại Việt Nam, Mỹ sai lầm vì đánh chỉ cầu hòa, mục tiêu và phương tiện không xác định rõ ràng và khi thấy quá hao tốn thì bỏ, và bỏ cả đồng minh lẫn những lý tưởng cao đẹp khi tham chiến. Caspar Weinberger đề ra sáu tiêu chuẩn quyết định về việc tham chiến hay không. Có vì quyền lợi sinh tử của Mỹ hay không" Có quyết tâm cung cấp đủ phương tiện tham chiến hay không" Mục tiêu có được xác định rõ ràng hay chưa" Có ý chí theo đuổi mục tiêu đó đến cùng hay chăng" Công chúng và Quốc hội có ủng hộ quyết định tham chiến hay không" Và, sau cùng, quan trọng nhất, còn cách nào khác hơn là giải pháp chiến tranh không" Nếu thiếu một trong sáu điều kiện này thì Mỹ không nên dụng binh.
Thất bại ở Việt Nam khiến giới lãnh đạo quân sự Mỹ tỏ ra thận trọng và dè dặt đến độ ích kỷ, vì sẽ chỉ ra quân khi quyền lợi sinh tử bị đe dọa. Nhưng chiến thắng của Cộng sản tại Việt Nam cũng lại là bản hùng ca cuối cùng của khối cộng sản: sau đó Liên xô bị sa lầy tại A Phú Hãn, Trung Quốc phải cải cách và khối Xô viết tan rã, toàn khối Đông Âu được giải phóng, thế giới lưỡng cực cáo chung. Trong 10 năm sau đó, ngân sách quốc phòng Mỹ bị cắt giảm và hết thời Bill Clinton, khi Donald Rumsfeld trở lại bộ Quốc phòng, ông tiếp nhận một guồng máy chiến tranh èo uột. Đối thủ của chúng ta, ông phát biểu, là hệ thống thư lại trong bộ Quốc phòng. Ông tiến hành cải cách, vận động thêm ngân sách và chú tâm giải quyết một bài toán do các vị tiền nhiệm để lại: “làm sao Mỹ có khả năng tham chiến trên hai mặt trận một lúc”. Ông nghĩ đến những kẻ thù giấu mặt, với đòn tấn công phi quy ước, bất ngờ và tàn độc vì dùng võ khí tàn sát nhắm thẳng vào thường dân. Ông nghĩ đến khủng bố và các chế độ dung dưỡng khủng bố.
Chiến tranh từ nay sẽ khác xưa, với chiến tuyến mơ hồ đến độ vô hình. Và Mỹ không lý vào chuyện của thiên hạ thì vẫn có thể bị thiên hạ lý vào chuyện của mình. Chủ thuyết Weinberger hay chủ thuyết Powell không thể xử lý được các trường hợp ấy.
Vụ khủng bố 9-11 đã xác nhận mối lo của Donald Rumsfeld, và ngay từ khi mở chiến dịch diệt trừ chế độ Taliban để truy lùng al-Qaeda tại A Phú Hãn, ông đã nghĩ đến Iraq và các quốc gia có thể chứa chấp hoặc tiếp trợ khủng bố, như Bắc Hàn hay Iran.
Iraq là một cường quốc cấp vùng, trong khu vực Trung Đông, và là một nước giàu tài nguyên dù còn chậm tiến. So sánh với Việt Nam dưới chế độ Cộng sản ngày nay thì Iraq giàu gấp bội mà mạnh hơn rất nhiều mà còn được cả tỷ người Hồi giáo ủng hộ vì tinh thần đố kỵ với Mỹ. Saddam Hussein còn được Pháp, Nga và Đức bênh vực vì lý do quyền lợi cục bộ của ba nước. Vậy mà Hoa Kỳ vẫn nhập cuộc, vẫn tấn công Iraq. Tận dụng lối tác chiến liên hợp của nhiều binh chủng, với khả năng ứng phó linh động chưa từng thấy cùng những kỹ thuật chiến tranh hiện đại nhất, Donald Rumsfeld đã hoàn tất mục tiêu quân sự trong có mấy tuần, còn nhanh hơn chiến cuộc tại A Phú Hãn, và càng nhanh hơn vụ Kosovo.
Sau một ngày tháng Tư u ám nhìn nước Mỹ thất trận tại Việt Nam, Tổng trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld đã có một tháng Tư oai hùng tại Iraq. Chính là ông chứ không phải Ngoại trưởng Colin Powell đã đi thăm các nước Hồi giáo lân bang để cảm tạ sự yểm trợ và thảo luận về việc sử dụng các căn cứ quân sự trong thời tái thiết Iraq. Chúng ta vừa qua một tháng Tư đầy những suy tư về Việt Nam khi ôn lại chuyện cũ....
Năm 1979, trong vụ đụng độ với Việt Nam tại sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa, lãnh đạo Bắc Kinh đã như bị điện giựt vì những tổn thất quân sự quá lớn nên họ tỉnh ngộ và đẩy mạnh việc cải cách kinh tế để có phương tiện quốc phòng. Theo dõi trận chiến vùng Vịnh năm 1991, Đô đốc Lưu Hoa Thanh cầm đầu quân đội đã thiểu não báo cáo lên Đặng Tiểu Bình, rằng kể từ hôm nay, Trung Quốc coi như hết khả năng phòng thủ nếu như bị Mỹ tấn công. Trong chiến dịch Iraq vừa rồi, hiển nhiên là lãnh đạo Bắc Kinh cũng muốn tìm vì sao Mỹ có thể chiến thắng một cách thần tốc như vậy. Nghĩa là họ lại như bị điện giựt lần nữa, mỗi lần lại trở nên thực tế hơn, có kỷ luật hơn trong việc quản lý đất nước, mà luôn luôn vẫn thấy mình chậm tiến.
Ở Hà Nội, lãnh đạo đã leo lên bệ quá cao, ngất ngưởng quá lâu mà lại chưa hề bị điện giựt nên cứ tiếp tục ngất ngưởng, trong khi thế giới đã đổi thay quá nhiều và quá nhanh.
Duy có một điều không thay đổi là sự tuần hoàn của thời gian, của tấm lịch. Sẽ lại có một ngày tháng Tư nữa, như tháng Tư bàng hoàng tại Baghdad.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.