*
Lập Lờ
Đỗ Nam Hải qua bài viết "Một số suy nghĩ về hai lá cờ Việt Nam" đã làm sáng tỏ một "thói đời" mang tính khuất lấp. Vậy có thơ rằng...
Trí thức này đây, khéo nhập nhằng
Đánh đồng lịch sử có buồn chăng
Cạn đường liêm sỉ đau lòng chữ
Khánh kiệt lương tri xót mảnh bằng
Xót nước, khom lưng, tuồng múa bậy
Thương nhà, uốn lưỡi, khúc ca nhăng
Đớn đau, cám cảnh đời khoa bảng
Lẫn lộn vàng thau qủy hoá tăng
Phạm Thanh Phương
*
Chỉ Một Lần
Đời người , ai cũng một lần chết
Có kẻ chết già, chết trẻ, chết non
Chết vì bệnh tật, hao mòn
Hay mắc chứng nan y, không thuốc chưã
Cũng có kẻ chết vì tai nạn nữa
Có cái chết nặng tưạ Thái Sơn
Có cái nhẹ tưạ lông hồng
Kiếp người dài chỉ qua HƠI THỞ chiều đông
Lái xe gặp cảnh gió mưa, bão tuyết, khó lòng
Bất cẩn, tai nạn xảy ra cả khối
Chết vì ân oán, tình thù lắm nỗi
Chấm dứt một kiếp người
Bất hạnh, trong lao tù cộng sản, thôi rồi!
Muốn chết phứt cho sạch nợ
Để khỏi bị đoạ đày khổ sở
Trong trường hợp nầy, chết sướng hơn, người ơi!
Nhưng TÂM NGUYỆN chưa xong, khó thể lià đời
Đành cắn răng NHẪN NHỤC
Giống như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, khâm phục!
Ta Đã Sống Trong Tận Cùng Bể Khổ
Mà Trước Kia Phật Tổ Hiểu Lơ Mơ
Cuộc đời nào đẹp như thơ
Nhưng cái chết có ý nghiã, hữu ích
Đó là hy sinh cho ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC,
Trước bạo quyền vẫn anh dũng hiên ngang
Đứng Lên Đáp Lời Sông Núi, dù thịt nát xương tan
Cương quyết không cúi qùi bạo lực hung tàn
Đúng là kẻ sĩ can trường, bất khuất
Những anh hùng VỊ QUỐC VONG THÂN
Ngàn đời vẫn được TRI ÂN
Tinh Anh, Khí Tiết Quyện Vào Hồn Thiêng Sông Núi
Vậy, cái chết nào đáng SOI"""
Kiều Phong (Toronto)
*
Việt Tộc Vùng Lên
Nước Nam lừng lẫy thời hưng quốc
Dấu ấn ngàn năm đuổi Bắc phương
Uy dũng oai phong, tài giữ nước
Lằn ranh Việt, Hán: nhớ Trưng Vương.
Dẹp yên phương Bắc, nhưng chưa dứt
Thống nhất sơn hà, mộng chửa xong
Đáng tiếc Quang Trung sao sớm thác..."
Nên màu dân chủ vẫn hư không
Trời Nam chưa thoát vòng nô lệ
Nguyễn Ánh thừa cơ rước Pháp về
Đau đớn thêm lần nhơ quốc thể
Trăm năm Pháp trị kéo lê thê.
Chẳng may vận nước còn tăm tối
Gặp kẻ gian hùng hại núi sông
Rước kẻ thù chung, trời không đội.
Hồ trong Pác-pó hại giang sơn.
Bốn Lăm (1945) thủa ấy muôn dân đợi
Một lá “cờ thiêng của Lạc Hồng”
Từ Bắc chí Nam bay phất phới
Nhưng rồi ngăn cách bởi dòng sông;
Bến Hải cắt chia trời Nam, Bắc
Hiệp Định đau lòng đâu dễ quên.
Hồ tặc, quả là tên phản trắc!
Theo Tàu, rước Mác, vác Lê-nin.
Bảy Lăm Quốc Nạn loang màu máu
Đất Việt, trời Nam phủ một màu:
“Giải phóng” trải đầy xương, thịt, máu
Mỹ từ “cải tạo”, gốc nhà lao.
Nước Nam hoang phế, thành trơ trụi
Một đám hung đồ đáng phỉ-khinh
Hán tộc sai đâu, qùy tới đấy
Làm sao mệnh nước chẳng chênh vênh
Bao giờ Việt-tộc vươn lên nhỉ!
Chẳng lẽ, ngồi xem Bắc thuộc sao"
Hán Cộng còn hơn loài quái quỷ
Tần... xưa, nay lại tái sanh Mao.
Vĩnh Nhất-Tâm
*
Tôi Mơ Ước
Tôi mơ ước ngày mai đây quê mẹ
Được thanh bình, không khói lửa binh đao.
Ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mâu
Không Cộng Sản dâng cao trào dân chủ...
Tôi mơ ước cờ vàng ba sọc đỏ
Khắp ba miền trên xứ sở thân yêu.
Dân tự tay cầm lá phiếu đi bầu
Tân thể chế, người đứng đầu chính phủ.
Tôi mơ ước quê hương ta trù phú
Nước tự cường được thực sự tự do.
Tay nắm tay xây dựng lại cơ đồ
Một đất nước tự ngàn xưa hùng vĩ.
Tôi mơ ước sông núi rừng nguyên thủy
Khắp ba miền là lãnh thổ của ta.
Được vẹn toàn không lệ thuộc Trung Hoa
Cùng đoàn kết diệt giặc Hồ Cộng phỉ.
Tôi mơ ước xóm làng quê thành thị
Có rất nhiều xa lộ chay băng qua
Đèn liên đường điện nước đến từng nhà
Sống thoải mái không bóng thù ác quỷ.
Tôi mơ ước không còn người mù chữ
Được đến trường học văn hoá như nhau.
Phẩm giá người nhân vị được đề cao,
Kinh và thượng thi đua vào đại học.
Tôi mơ ước nhà tù thành trường học
Thành nhà thương, nơi săn sóc phế nhân
Đã hy sinh trong cuộc chiến tương tàn,
Ý thức hệ, mất một phần thân thể.
Tôi mơ ước bao sinh viên giới trẻ
Là linh hồn của thế hệ văn minh,
Hãy đứng lên tự cứu lấy dân mình
Sắp bị diệt trên tiến trình Bắc thuộc...
Nguyễn Đình Hoài Việt (Lục Bình Sông Hậu)
*
Nguỵ Biện
Cướp nhà đảng giết “ngụy quân”
Chết đói đảng gọi “ngụy dân” gửi tiền
Làm hư đảng chửi: “Ngụy quyền!”
Bán nước thời đảng tuyên truyền nhố nhăng
Bán dân miệng đảng hung hăng
Mua về quốc nhục ai bằng “tam vô”!
Lòng dân tức nước vỡ bờ
Đảng còn chưa sợ, phớt lờ ăn chơi
“Ma cô, đĩ điếm…” nặng lời
Rồi khen: “Khúc ruột…” gọi mời về thăm
“Ngụy” nào là chữ đảng lầm"
“Ngụy” nào là chữ đảng cầm trên tay"
Giàu sang hưởng thụ: một “bầy”
Nghèo nàn bán máu lất lây: dân hiền
Đọc thơ nếu có ai điên
Xin đừng tin đảng đem tiền về… dâng
Bài thơ khóc với điệu vần
Viết trong tức tưởi ngại ngần nhắc nhau
Nhắc ai tâm còn biết đau
Từ ngày rời nước, đồng bào vẫn thương!
Ý Nga
*
Chú Dũng Ơi!
Chú Dũng ơi ời chú Dũng ơi!
Việt Nam đã khổ quá đi rồi
Chú làm Thủ Tướng mà sao tệ
Để cả toàn dân phải ngậm ngùi…!
Sài Gòn hòn ngọc đầy hoa lệ
Lũ khỉ về đây đã xéo dày
Trăm ngàn ổ điếm phường buôn lậu
"Thiên đàng" Cộng sản thật họa tai…
Thanh niên ở đợ đi cùng khắp
Xuất khẩu công nhân trả nợ đời
Vay đạn cướp miền Nam nhuộm đỏ
Đè dân thu thuế- Đảng ăn chơi…
Đài Loan, Đại Hàn sang kiếm vợ
Con gái Triệu Trưng chịu nhục nhằn
Cở hết áo quần cho chúng lựa
Vuốt mông, sờ vú dám nào than!
Chú làm Thủ Tướng vợ con sang
Đầy nhóc trong kho đủ bạc vàng
Công An hung hãn như là quỷ
Chế độ rồi đây sẽ phải tan…
Nghịch lòng dân, chẳng thuận ý trời
Cải tà quy chánh chú Dũng ơi
Tên y là Dũng sao hèn quá
Để lũ Tàu Ô ngạo mạn cười!
Ngư dân chúng bắn như săn vịt
Hải đảo Hoàng Sa chúng dựng cờ
Cột mốc cắm sâu vào nội địa
Đảng chưa đui- Sao cứ ỡm ờ!
Giết lũ thân Tàu chú Dũng ơi!
Bắt tay thằng Mỹ để cho đời
Tên mình là Dũng nên anh dũng
Ban xuống trời Nam vạn nụ cười
Xóa đi Đảng Cộng với cờ sao
Dân chủ đa nguyên thật ngọt ngào
Cả nước tên vàng ghi chú Dũng
Một trang hùng sử để ngàn sau…
Cử Bảy