Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

09/11/200800:00:00(Xem: 3030)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Vậy con rắn chui vào lối nào để lột" Và khi lột rồi thì con rắn ra lối nào" Khắp chung quanh màn, chiếu vẫn còn dập y nguyên. Một sự lạ trước mắt mà không ai có thể hiểu được, không ai lý giải được. Trong đám khách họ hàng đọc kinh hôm ấy lại có một ông trùm và một ông thầy của nhà xứ.
Lại có một sự việc trùng hợp khá hòa nhịp nữa: Bố tôi là một người có võ nghệ mà trong huyện nhiều người biết. Gần một năm trời, do sự lôi kéo, phỉnh phờ của Việt Minh, bố tôi đã đi huấn luyện võ thuật cho du kích ở nhiều xã trong huyện. Điều này các cha và phía công giáo ở địa phương lúc ấy không thể chấp nhận được. Coi việc làm đó như là một hành động bỏ Chúa, phản giáo để đi theo lũ vô thần, quỷ dữ. Nhưng chẳng hiểu vì sao, do nguyên nhân nào, hơn một tháng trước, bố tôi bỗng dưng từ bỏ không đi dậy võ cho du kích nữa. Chính vì thêm cái lắt léo này, cho nên ngay buổi tối hôm ấy, câu chuyện nghiễm nhiên trở thành một huyền thoại như sau: "Hôm nay là ngày giỗ bố (ông nội tôi) hiển linh. Bố tôi đã bỏ đạo theo lũ vô thần nên tượng trưng con rắn. Con rắn đã lột xác để trở về với Thiên Chúa ngay lành, tẩy trừ, gột rửa tội lỗi".
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, nhưng phép lạ thì còn đồn xa hơn nữa. Một đồn mười, mười đồn trăm, những ngày sau đó rất nhiều người đến xem tại chỗ sự lạ. Cái xác rắn bố tôi đã để trong một cái hộp kính, đặt ngay tại gian giữa nhà khách, cạnh buồng của bố tôi. Bất cứ ai đến cũng được xem tỉ mỉ xác rắn, và vào tận giường bố tôi để quan sát. Có nhiều ông già, bà cả ở tận những huyện xa cũng mò đến nơi để được nhìn tận mắt. Thậm chí ngay cả cha xứ cũng xuống xem, rồi rao giảng sự việc ở nhà thờ nữa. Câu chuyện chỉ tự nhiên được thêm một chi tiết: Cái xác rắn nằm dài thõng thượt ngay chính giữa chỗ bố tôi nằm, trong khi thực tế thì tôi đã cuộn lại.
Chỉ có tôi, thời gian ấy, đã vô cùng ngạc nhiên đến độ sợ hãi vì câu chuyện đã trở thành nghiêm trọng quá nên tôi không còn dám nói với một ai. Lúc đầu, mục đích chỉ muốn làm quà cho bố tôi để nhẹ trận đòn. Sau thấy diễn tiến của sự việc được nhiều người chú ý thì chỉ thấy mừng vì ông bố đã quên béng buổi trốn học đi xem chọi gà của tôi. Chứ đâu tôi có ngờ, câu chuyện càng ngày càng mở rộng ra khắp huyện như vậy.
Rồi thời gian trôi đi, năm 1950, tôi ra Hànội; rồi vào Nam cho tới khi trở ra Bắc và cho tới bây giờ. Do những đẩy xô, lôi kéo của cuộc đời, tôi chưa có dịp nào để trình bày lại sự thật của sự việc này cho những người của muôn năm cũ ấy. Ngày nay, bố mẹ tôi đã mất, và cả ai còn ai mất của những ngày ấy. Hẳn rằng, cho tới khi họ nhắm mắt lìa đời, lòng họ vẫn sắt đá tin rằng con rắn sau khi lột xong đã biến mất là một sự lạ hiển nhiên, trông thấy, nên họ vẫn tin, như tin có mặt trời vậy.
Thế mà, theo anh Bách, vào cuối năm 1956, sau khi cộng sản tiếp quản thủ đô Hànội ngày 10/10/1954 theo những thời gian đã ấn định của hội nghị đình chiến Geneve, hơn một năm trời CS không hề đả động đến các tín ngưỡng của người dân, vì chúng còn bận lo nhiều chuyện khác lớn hơn, khi mới tiếp quản. Lúc này chúng đã nắm chắc mọi vấn đề chính rồi; cũng là lúc chúng đã theo dõi, moi móc, tìm tòi nắm chắc, xếp loại được mọi thành phần của người dân trong tay chúng. Bấy giờ chúng mới mở một chiến dịch rầm rộ đánh phá những cái mà chúng cho là dị đoan, mê tín.... trong quần chúng. Chúng phát động một chiến dịch dài ngày trên khắp miền Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, nhất là những nơi hẻo lánh, hoang dã giữa rừng sâu.
Như trên đã trình bày, chúng đã chọn, đã lọc ra những loại điển hình đầu sỏ của từng địa phương, từng bản làng. Những thày mo, thày pháp, tổ sư nổi danh nhất, đã dạy, đã đào tạo ra bao nhiêu học trò trở thành pháp sư làm ăn ở các địa phương khác. Những loại tổ pháp sư phải có dưới tay hàng chục ngàn âm binh, thiên tướng, khét tiếng linh thiêng, uy quyền như thần, thánh. Từ thời Pháp thuộc, thời Bảo Đại, quan châu, quan phủ, không một ai dám động đến các thầy, sợ các thầy thư, các thầy ếm âm binh về phá gia cang... Tùy theo từng tỉnh, huyện miền xuôi, hay châu, phủ, miền ngược. Cộng sản chọn những nhân vật nổi tiếng nhất, điển hình nhất, xin mời tất cả các vị về thủ đô Hànội, gồm trên dưới 100 người. Những tay tổ nhất về các lãnh vực huyền bí đều không thiếu mặt. Thậm chí, ngay cả các dụng cụ đồ nghề như kiếm, đao, thương, xuyên lình, hình nhân các loại âm binh, cả các loại sách vở tướng số bùa ngải... đều được đem đi theo với các thầy về Hànội.
Cộng sản để ngay các thầy tại phòng thông tin cũ (trước 1954) gần bên đền bà Kiệu, trông chéo ra cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm. Bên ngoài có công an vũ trang canh phòng cẩn mật. Hàng ngày có các cán bộ đến giảng dậy về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người phải ra sức nhiệt tình giúp chính phủ gột rửa được những tệ đoan, mê tín trong óc đám quần chúng ít học, ít hiểu biết. Nếu anh chị nào (ông già râu bạc, bà già móm mém khi bị bắt, cộng sản đều gọi là anh chị) thành khẩn ăn năn, tự phơi bầy những mánh khóe bịp bợm, thủ đoạn, tâm lý... từ đời này truyền qua đời khác, gieo rắc những thần, thánh, ma quái bịp bợm mọi người ra sao, nhà nước sẽ cứu xét tha cho về, làm lại cuộc đời lương thiện với vợ con, bản làng. Ngược lại, anh chị nào ngoan cố, cứ khư khư giữ, giấu cái món bí truyền ấy thì cứ ở đấy mà suy nghĩ.
Thôi thì các cụ, đại đa số đều đã già lão, yếu đau, trước đây, một bước đều có kẻ hầu người hạ, một cái giơ tay lắm kẻ nâng đỡ, bây giờ, bị giam ở đây, một mình khổ cực trăm bề thiếu thốn sao chịu cho nổi. Hơn nữa, ai cũng thấy bây giờ đã đổi đời rồi, không còn thể bịp thiên hạ mà sống được nữa, không gì bằng hãy thành khẩn thú thật hết mọi mánh khóe, thủ đoạn bịp bợm trước đây của mình.
Đến đây, có một chi tiết không thể không nói được, đó là khi nhà cầm quyền cộng sản đã nhốt các vị ấy rồi, ngoài những bài học tập, những lời giáo dục ra họ có tuyên bố: Nếu ai trong các anh chị cần lấy bất cứ thứ gì ở nhà nơi địa phương, về dụng cụ, về chất liệu hành nghề, họ sẽ lấy đến cho. Nghĩa là, sẵn sàng tạo giúp cho anh chị nào muốn sai âm binh, thiên tướng, hoặc độn thổ, thăng thiên ra ngoài được thì nhà nước sẽ tha cho. Còn ai không làm được, thì chịu khó ở đấy mà ra sức học tập.
Có lẽ, các quý vị tổ sư chẳng lỡ sai âm binh hại cộng sản. Các thầy địa lý, chẳng bõ xóa long mạch của những tên lãnh tụ Hồ, Đồng, Khu, Giáp. Các ông thần, bà chúa chẳng thèm nói chuyện với cộng sản, cho nên các bậc tổ sư, từ đầu bao nhiêu người, thì cuối vẫn còn bấy nhiêu người. Chỉ trừ thiếu đi các vị không thể chịu được những cay đắng, lầm than trong ngục tù phải chui về lòng đất thì không kể.
Gần 2 tháng trời, chúng lựa chọn, lọc lõi những bài kiểm điểm, tự thú nói lên sự việc một cách điển hình. Chúng chọn 10 người điển hình nhất, tổ chức một cuộc mít tinh lớn, mời đồng bào các nơi về dự. Mười người điển hình này, lần lượt ra trình bày mọi mánh khóe, thủ đoạn lừa bịp người khác về các mặt: thầy pháp, lên đồng, đánh đồng cốt, xuyên lình cổ, má, các loại ma xó, ma trành, bùa ngải, thư ếm... trong gần một tuần lễ trước quần chúng nhân dân.
Sau đó, chúng cho đại đa số các thầy về địa phương quản chế, giáo dục tiếp. Ngược lại, còn một số ít, khoảng hơn hai chục người ngoan cố, tìm cách xuyên tạc, che giấu mà cộng sản cho là không thể giáo dục được, thì bị chúng cho đi vào ấp để những người này có điều kiện luyện tiếp âm binh cho thành cao thủ. Riêng phân trại E này có 6 người, mấy năm trước chết mất 2, bây giờ còn lại 4 người là Quách Cẩm 72 tuổi, ở toán 4. Quách Mơi 56 tuổi ở toán xẻ. Lồ Phá Chỉ 70 tuổi ở toán 5 (toán rau). Đèo Sín Kha 58 tuổi ở toán 6 nông nghiệp.


Theo anh Bách, trước đây, đôi khi anh em trong trại thường hay hỏi đùa các cụ: "Sao các cụ không sai âm binh nó rỡ hàng rào trại, hoặc bóp cổ hết lũ giám thị, để chúng mình về với vợ con"" Thì các cụ chỉ móm mém cười buồn mà không trả lời. Hiện nay, có thể vì gần cuối đời rồi mà còn bị búa đời phang cho túi bụi, kết hợp với những tủi nhục, đắng cay của cảnh tù đầy đã làm cho cụ nào cũng đờ đẫn, lù khù. Riêng Quách Mơi còn tương đối minh mẫn. Họ Quách đối với dân tộc Mường là một trong 4 họ danh giá, thế phiệt nhất. Quách Mơi nổi tiếng trong trại là người duy nhất thích ăn thạch sùng (mối) sống. Nếu ai bắt được con mối sống, có thể đổi được ít thuốc lào với Quách Mơi. Nhiều người khi bắt được con mối, cũng muốn nướng ăn, nhưng lại muốn cho Quách Mơi để được nhìn cách Quách Mơi nuốt con mối. Anh Bách nói, Q. Mơi không phải là nuối mối, mà ông ta đặt con mối chui đầu vào miệng, rồi bóp mạnh cái đuôi con mối, tự con mối chạy chui xuống dạ dày của ông ta. Nghe anh Bách nói tới đây, tôi nôn nóng hỏi ngay:
- Thế, có biết Q. Mơi nuốt thạch sùng sống để làm gì không hay chỉ vì thiếu chất protein"
Một lúc lâu mới nghe anh Bách trả lời:
- Cũng là có rất nhiều anh em hỏi, nhưng chưa bao giờ Q.Mơi nói lý do. Vì vậy có người đoán, có lẽ âm binh hay ma trành, ma xó trong bụng của Q.Mơi cần ăn thạch sùng sống, hay Q.Mơi đang luyện một món "bí kíp" mới, ai mà biết được.
Đến đây, chưa phải là câu chuỵên anh Bách kể làm cho tôi thích thú, nên ghi mãi trong lòng. Cái chuyện làm tôi thích thú, chỉ vì con mối, tức con thạch sùng của Q. Mơi lại có liên quan đến một câu chuyện buồn cười trong một đoạn đời ấu thơ của tôi.
Ngày xưa xa lắm (cứ nói ngày xưa cho nó có vẻ truyện cổ tích) khi ấy tôi chỉ độ 5-6 tuổi, nhà bố mẹ tôi thì ở dưới phố huyện. Còn nhà bà nội tôi thì ở mãi trên nhà quê xa lắm, cách nhà bố mẹ tôi đến 6-7 cây số. Chả biết ông nội tôi chết từ khi nào, tôi chỉ thấy một mình bà tôi sống ở một căn nhà 3 gian, chung quanh có vườn trồng nhiều cây cối.
Cái làng của bà nội tôi thật là nhà quê. Hầu hết dân làng đi chân đất, đàn bà mặc váy mà sau này người ta gọi đùa là quần một ống. Ngay bà tôi cũng chỉ có một đôi guốc đẽo bằng gốc cây tre già; nó cong cong và cao lênh khênh. Bà tôi chỉ dùng để rửa chân trước khi đi ngủ. Có lẽ bà tôi ở một mình buồn, nên ngay từ khi tôi được 3-4 tuổi, bà tôi đã bắt tôi về ở với bà. Bà tôi chiều tôi hết ý, nên có rất nhiều chuyện xảy ra trong thời gian này, trong đó có một câu chuyện liên quan đến con thạch sùng.
Như tôi đã nói, tôi khoảng 5-6 tuổi, tuy suốt ngày mặc áo, nhưng vẫn cởi truồng. Tôi chỉ có hai cái quần, một cái quần đùi và một cái quần dài. Tôi chỉ được mặc khi theo bà xuống dưới nhà bố mẹ tôi, hoặc vào những ngày giỗ, Tết. Chính vì tôi cứ ở truồng như vậy, nên la cà, chơi bời thế nào không biết, cứ lâu lâu chim lại bị sao đó, nó sưng, nó ngứa ghê lắm. Càng gãi, càng xoa nó lại càng sưng to, đỏ mọng lên. Mỗi lần tôi bị như thế, bà tôi thường bảo:
- Mày lại bị con "ma mò" nó cắn rồi!
Với đầu óc của tôi thời gian ấy, tôi tưởng tượng ra con "ma mò" nó ghê gớm lắm. Đêm đêm nó thò những cái vòi đỏ chóet quấn chặt, rồi cắn tôi. Tôi chỉ biết khóc, năn nỉ bà tôi chữa cho.
Thế rồi bà tôi chuẩn bị chữa cho tôi. Cái khâu đầu tiên là bà tôi phải tìm, rình bắt cho được một con thạch sùng. Có khi bà tôi không tìm ra hay không bắt được, bà tôi phải sang nhà một ông trùm họ (công giáo) tên là Việt ở xóm bên cạnh, nhờ bắt dùm. Khi có con mối rồi, bà tôi vào buồng lấy một cái lọ sành vẫn đựng chừng 2kg đậu đen để dành cho ngày Tết nấu xôi hay chè. Bà tôi đổ đậu ra một cái thúng con, lấy cái lọ không, rồi bỏ con mối vào trong. Theo bà tôi giải thích, chữa bệnh "ma mò" này chỉ được chữa vào buổi tối mới linh nghiệm. Chờ cho trời tối hẳn, khi gà đã lên chuồng, bà tôi đã chuẩn bị sẵn trong lò bếp một đống tro than rạ còn nóng hổi. Bà tôi lấy một đôi đũa cả, đút phía đầu nhọn của đôi đũa vào đống tro than nóng. Xong rồi, bà tôi bắt tôi ngồi xổm, giơ chim ra, một tay bà tôi cầm cái lọ có con mối ở bên trong; một tay bà tôi dùng đôi đũa cả đã dúi, vùi trong tro nóng. Nhanh nhẹn, bà tôi cứ gắp, vuốt vào chim tôi từ trong ra ngoài, rồi bỏ vào lọ. Mỗi lần bà tôi gắp bỏ lọ, miệng bà tôi lại lẩm bẩm:
- Gắp "bống" bỏ lọ này!
Tôi chỉ thấy nóng rát. Nhưng rất là kỳ lạ, chỉ "bỏ lọ" chừng vài chục lần là đỡ ngứa hẳn đi. Nghỉ khoảng một giờ sau, lại gắp bỏ lọ một đợt nữa là khỏi. Khi xong việc, thường thường trời đã tối mịt. Bà tôi còn phải ôm cái lọ, lần mò ra tận ngoài cổng để đổ "ma mò" đi. Theo bà tôi, con thạch sùng nó thích ăn "ma mò" lắm.
Sau này tôi lớn lên, đôi khi nhớ đến việc gắp "bống" bỏ lọ này, tôi thầm nghĩ: Đây là một sự mê tín rất kỳ khôi! Có thể là do những con mò gà (một loại rận, mát của gà) do tôi lê la, nghịch ngợm, chơi bời; chim thì da non, lũ mát gà này chui vào cắn. Bà tôi dùng đũa nóng vuốt, các chú mát dúm người lại rời ra, hay bị chết nóng nên tôi đã khỏi. Chứ chả phải con thạch sùng thích ăn 'ma mò'.
Đây mới là đoạn tôi thích thú và nhớ mãi những ngày kỷ luật này với anh Bách: Tôi cứ tưởng câu chuyện "ma mò" chỉ có riêng tôi bị, và cũng chỉ ở riêng vùng quê tôi mới có mà thôi. Không ngờ, anh Bách sau khi nghe tôi kể lại, cũng nói: Khi anh còn nhỏ ở vùng Bắc Ninh, quê anh, anh cũng bị "ma mò" và cũng chữa tương tự như vậy. Chỉ có hơi khác, anh Bách là do mẹ anh ta chữa, và bà gắp lại bỏ vào một cái túi vải, cũng có con thạch sùng bên trong, và cũng phải đưa ra ngoài ngõ đổ.
Tôi và anh Bách thật không ngờ có một câu truyện cứ tưởng chỉ riêng mình có, hóa ra lại giống nhau. Tuy chân đang đau buốt rã rời, và bụng đói cào cấu, thế mà anh Bách và tôi đã có thể còn cười thành tiếng được, khi cùng tưởng tượng lại cái cảnh gắp "bống" bỏ lọ và bỏ túi ngày ấy.
Một điều thật bất ngờ đối với tôi. Khoảng 1 giờ trưa ngày thứ năm, kể từ ngày tôi phải vào nhà kỷ luật, đột nhiên cửa nhà kỷ luật loạch xoạch chiếc chìa khóa rồi mở toang. Bây giờ chưa phải là giờ cơm, kẻng xuất trại 1 giờ vừa xong. Bởi vậy tôi vội chuẩn bị tinh thần để đón nhận cái bất ngờ, có thể đến với mình. Thoáng bóng tên Cẩn trực trại và tên Thái y tá. Tên Cẩn, mặt rất lạnh lùng, tiến đến trước cái cùm chân của tôi. Y ưỡn người, đứng nghiêm nói nhát gừng:
- Lệnh của ban giám thị, tôi tuyên bố tha cùm anh.
Trong khi tên Cẩn quày quả trở ra bên ngoài của để rút chốt cùm, tôi bàng hoàng ngẩn hẳn người ra. So với những tội của những người đã đi kỷ luật, tôi đinh ninh, chuyến này ít ra cũng nửa tháng đến một tháng. Tên Thái, phụ tôi nhấc nửa cùm phía trên, để tôi rút chân ra. Mới chỉ là ngày thứ ba mà tôi đã đứng lên không được. Thái đã đỡ tôi ra hè ngồi đến 5 phút để xoa nắn bắp chân và đôi bàn chân, tôi mới cố gượng đứng lên được. Trong khi tên Cẩn đang khóa cửa nhà kỷ luật, tôi vịn tay tên Thái, quay lại phía trong nói to:
- Tạm biệt anh Bách, giữ gìn sức khỏe nhé!
Tên Cẩn đưa mắt lườm tôi, nhưng tôi lờ đi. Tôi đường hoàng, vì nội quy của trại không có điều khoản nào cấm 2 người trao đổi tình người những lúc này. Chính vì thái độ mạnh dạn, không sợ tên Cẩn của tôi, nên tên Thái cũng tỏ vẻ muốn làm thân với tôi. Cụ thể, khi y dẫn tôi đến trước nhà số 3, tên Cẩn đang đi phía trước, tên Thái ghé vào tai tôi thì thào:
- Ông Cẩn định cùm anh lâu, nhưng Hoàng Thanh đã ra lệnh thả anh.
Về đến buồng, tôi vẫn nghĩ mãi, tại sao tên Thái lại có thể biết được tình tiết như vậy" Còn H. Thanh" Dù tôi mới chỉ gặp y một lần, nhưng tôi cũng đã hiểu, y không phải là loại người thấp kém. Với con mắt tinh tế của y, tôi tin rằng y đã nhìn được tôi không phải là loại người mua bằng uy quyền và lợi lộc. Nếu mục đích y dùng ân huệ thả cùm này để mua tôi thì y đã có tài làm cho tôi nhìn sai lệch về y. Vậy y tha cùm tôi nằm trên ý đồ nào" Thời gian sẽ cho phép tôi hiểu.
Việc tôi được tha cùm sớm như vậy, cũng làm cho anh em trong trại bàn tán không ít. Tên trật tự Tân và tên Thái y tá thấy rằng, sơn của chúng không ăn được mặt tôi nên chúng cũng không làm gì quá đáng để tôi phải khó xử cả. Cụ thể mấy lần, khi toán 2 về cổng trại, tên Tân khám nắn từng người. Lục soát những đồ nội quy cấm không được mang vào trại. Ba bốn cái đóm nứa dắt trong người, y cũng lôi ra. Bởi vì theo qui định, mỗi phạm nhân, mỗi ngày chỉ được đưa vào trại 1 cái đóm để hút thuốc đêm mà thôi. Nhưng khi y khám đến tôi, cả một bó đóm gần chục cái, tôi dắt trong lưng áo. Y sờ thấy, y chỉ nhìn tôi một cái như ý nói: "Tôi thấy rồi mà không lấy bó đóm ra đâu nghe". Như vậy tôi cũng phải biết điều, không nên căng quá với y nữa.
Do tôi được thả cùm sớm, một số anh em chưa hoặc ít tiếp xúc với tôi, họ đều nhìn tôi bằng ánh mắt dè dặt, nghi ngờ. Ngược lại, những người mà tôi đã qua lại tiếp xúc nhiều, đã hiểu tôi, họ lại càng quý mến tôi hơn như Lê Sơn, Quý cụt, Vân, Thú, nhóm Nông Quốc Hải, bác Lẫm....
Một việc đã làm tôi rất xúc động. Tôi rất ngại ngần, giằng co không muốn viết ra nhưng suốt đời không thể quên được. Một buổi trưa, hơn một tuần lễ sau khi tôi được tha cùm, Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính, hai anh là người dân tộc, có thể họ đã theo dõi, để ý tôi từ trước mà tôi không biết. Họ kéo tay tôi, ra hiệu đi theo họ về phía sau ngôi nhà số 3. Chỗ này có một bụi nứa che một góc khuất tương đối kín đáo với mọi hướng. Hai anh chẳng nói năng gì, vẻ mặt đầy xúc động, thành khẩn. Mỗi anh cầm một tay của tôi, cúi xuống hôn rồi đặt tay tôi lên đầu của họ. Lầu Phá Tra nói chưa sõi tiếng Kinh:
- Anh Bình, chúng tôi thích anh lắm! Sau này anh ở đâu, lúc nào anh gọi, chúng tôi sẽ đi theo anh suốt đời.
Thật bất ngờ, nên tôi bàng hoàng xúc động, không nói lên lời. Tôi đâu có được xứng đáng để họ đặt lòng tin yêu như vậy" Dù vậy tôi cũng thân thiết cầm bàn tay họ và nhìn họ với mầu mắt của những người đi cùng một hướng. Tôi hiểu lòng họ thật chất phác, đầy ắp thủy chung, nhưng để phòng hờ tôi vẫn dặn họ không được nói việc này với những người khác. Những ngày tới, tôi sẽ nói chuyện tiếp với họ.
Khi về buồng cũng như đêm hôm ấy, tôi vẫn suy nghĩ về họ nhiều. Những người này, tôi chưa hề chuyện trò hay quan hệ nhiều với họ. Họ chỉ nhìn tôi qua con người và những hành động, sinh hoạt hàng ngày, mà họ tin tôi như vậy. Tiền bạc, uy quyền có thể mua được nghĩa tình này đâu. Tuy sau đấy tôi còn nhiều vấn đề với các anh, nhưng việc làm này của các anh đã làm lòng tôi khắc khoải mãi không thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.