Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông – LS Lê Đình Hồ

11/08/200800:00:00(Xem: 1904)
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]

Hỏi (Ông Trần V.M): Con tôi bị cáo buộc về tội buôn bán ma túy với số lượng thương mãi. Cháu bị đưa ra tòa một lần nhưng đơn xin tại ngọai của cháu đã bị tòa từ chối.

Cháu cho biết số lượng ma túy đó là của mấy người bạn cùng mướn chung căn appartment. Cháu chỉ là người đến thăm và được mời ở lại đêm hôm đó thôi. Ngòai ra cháu hòan tòan không hề hay biết gì về việc các bạn của cháu buôn bán hoặc xử dụng ma túy.

Cháu cho biết đây là lọai ma túy mà trên thị trường gọi là ice, hình dạng và màu sắc gần giống như muối hột của mình. Cháu hiện học năm thứ 2 tại đại học và chưa bao giờ vi phạm luật pháp.

Xin LS cho biết là liệu cháu có được tòa tra tự do hay không. Nếu không thì hình phạt sẽ như thế nào"

*

Trả lời: Điều 25(1) “Đạo Luật về sự Lạm Dụng và Buôn Bán Ma Túy” (the Drugs Misuse & Trafficking Act 1985) quy định rằng: “Người buôn bán hoặc cố ý tham dự vào việc buôn bán ma túy sẽ bị buộc tội này”.

Điều 29 quy định rằng: “Người sở hữu một lượng ma túy nhiều hơn lượng ma túy dùng để buôn bán sẽ bị xem là sở hữu ma túy để cung cấp, ngọai trừ (a) người đó chứng minh được rằng đương sự sở hữu ma túy không phải dùng để cung cấp. . .” (A person who has in his or her possession an amount of a prohibited drug which is not less than the trafficable quantity of the prohibited drug shall be deemed to have the prohibited drug in his or her possession for supply, unless (a) the person proves that he or she had the prohibited drug in his or her possession otherwise than for supply. . .).

[Ghi chú: Trafficable quantity (số lượng buôn bán): Hiện nay được quy định là 3grams. Commercial quantity (số lượng thương mãi): Hiện nay được quy định là 250grams].

Trong vụ Cummings v R [2007] NSWCCA 347, “vào ngày 10.2.2005 cảnh sát đã thực hiện việc lục xét nhà của bị cáo và tìm thấy ở đó tổng cộng 19.28grams methylamphetamine. Một số ma túy được phát hiện đựng trong những bao nhựa dẽo có thể mở ra và niêm lại được. cảnh sát cũng phát hiện được trong túi xách tay của bị cáo số tiền mặt tổng cộng là $2,365” (On 10 February 2005 the police conducted a search of the accused’s premises finding there methylamphetamine totalling 19.28grams. Some of the drug was found in resealable plastic bags. Police also found in the accused’s handbag was cash totalling $2,365).

“Có bằng chứng là khỏang giữa 5 giờ 30 đến 9 giờ 30 sáng 10.2.2005 một số người đã đến viếng và rời nhà bị cáo. Hai người có mặt tại nhà vào lúc cảnh sát vào đã đưa ra bằng chứng là có nhận một lượng ma túy từ bị cáo” (There was evidence that between 5.30am and 9.30am on 10 February 2005 a number of people had visited and left the accused’s premises. Two persons found in the premises at the time the police entered gave evidence of having received a quantity of drugs from the accused).

“Vào ngày 4.8.2006 bị cáo bị tuyên bố có tội về sự cáo buộc rằng vào ngày 10.2.2005 tại Dubbo cô ta đã cung cấp ma túy có nghĩa là, methylamphetamine” (On 4 August 2006 the accused was found guilty of a charge that on 2.10.2005 at Dubbo she did supply a prohibited drug to wit, methylamphetamine).

“Bị cáo không trưng dẫn bằng chứng trong lúc xét xử cũng như trong suốt thủ tục tuyên án mặc dầu bản tường trình trước khi tuyên án đã được đệ nộp trong lúc tiến hành thủ tục tuyên án” (The accused gave no evidence during the trial nor in the sentencing proceedings although there were tendered during the sentencing proceedings a presentence report).

Bản tường trình trước khi tuyên án cho thấy rằng bị cáo sinh năm 1961 và có tiền án như sau: Tháng 6 năm 1996 bị tội sở hữu ma túy. 3 tội cung cấp ma túy. Tháng 7 năm 2000 bị tội sở hữu ma túy. Tháng 10 năm 2001 bị tội sở hữu ma túy. Tháng 3 năm 2002 bị tội sở hữu ma túy, tháng 6 năm 2006 bị tội cung cấp ma túy.

Vào ngày 22.11. 2006 tòa đã xử bị cáo 6 năm tù ở và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 4 năm. Bị cáo bèn kháng án.

Các lý do kháng án của bị cáo như sau: 1. “Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi lưu tâm đến tiền án về các sự vi phạm ma của bị cáo và các sự vi phạm sau đó của cô ta như là một yếu tố gia trọng” (The sentencing judge erred in taking into account the accused’s prior record of drug offences and her subsequent offences as an aggravating factor). 2. “Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm không chịu truy xét trực tiếp về việc liệu bị cáo có phải là người xử dụng ma túy hay không” (The sentencing judge erred in not making any finding as to whether the accused was a user in relation to drugs). 3. “Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi ông ta đã không chịu lưu ý đến kết quả được tìm thấy trong bản đánh giá về tâm lý mà bị cáo đang bị những triệu chứng tương hợp với tình trạng suy nhược và cũng không chịu cứu xét đến tình huống đặc biệt liên hệ đến vấn đề này” (The sentencing judge erred in that he did not make any reference to the finding in the psychological assessment that the accused was suffering from symtoms sonsistent with depression and also failed to consider the question of special circumstances in relation to this). 4. Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi ông ta không lưu tâm đến các yếu tố “phản ảnh được sự cần thiết đối với việc phục hồi chức năng cho bị cáo” (reflected the need for the rehabilitation of the accused). 5. “Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm trong việc áp dụng điều 44 thuộc Đạo Luật Hình Sự [về Thủ Tục Tuyên Án] bằng cách không chịu xem xét đến tình huống đặc biệt, và rồi ấn định thời gian được phóng thích có điều kiện theo một phương cách nghiêm ngặt, vượt quá tỷ lệ pháp định” (The sentencing judge erred in his application of s.44 of the Crimes [Sentencing Procedure] Act by not finding special circumstances and then by fixing a period of parole in a strictly sequential way, which was in excess of the statutory ratio). 6. Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi đặt mức khởi đầu của bản án quá cao và đã sai lầm khi không chịu áp dụng nguyên tắc tỷ lệ trong trường hợp vi phạm của bị cáo, vì thế đã đưa ra một bản án quá nặng.

Tòa Kháng Án Hình Sự cho rằng vào lúc xử án vị thẩm phán tọa xử đã tuyên bố rằng: “Hồ sơ hình sự đối với các vi phạm về ma túy của bị cáo là yếu tố gia trọng và sẽ được lưu tâm đến khi tôi cân nhắc là liệu còn có chỗ nào cho sự khoan dung hay không” (The accused’s criminal record for drug offences is an aggravating factor and will be considered when I am considering whether there is any room for leniency). Điều này đã nói lên được rằng vị thẩm phán tọa xử chỉ lưu tâm bình thường đến hồ sơ hình sự của phạm nhân. Đồng thời Tòa Kháng án đã bác bỏ tất cả các lý do mà bị cáo đã nêu lên và tuyên bố là giữ nguyên phán quyết của tòa án vùng.

Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng tội trạng mà con của ông bị cáo buộc là một tội trạng hình sự nghiêm trọng vì hình phạt tối đa dành cho tội trạng này là 15 năm tù. Tuy nhiên, nếu con của ông ngay tình và hoàn toàn không hề hay biết gì về số lượng ice đó thì chắc chắn rằng cháu sẽ được tha bổng. Việc này còn tùy thuộc vào lời khai của mấy người bạn cùng đi với cháu.

Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.