Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

29/03/200900:00:00(Xem: 2754)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Xuôi theo hai mé đồi, một mầu vàng chói, óng ánh viền trên những ngọn nứa. Một đàn cò trắng toát bay theo đội hình chữ “V” ngang lưng trời. Hồn tôi như luồn ra khỏi cơ thể để hòa lẫn vào thiên nhiên lung linh, mờ ảo.
Tôi liếc nhìn đây đó để tìm một ánh mắt ít nhiều đồng cảm với tôi trong lúc này, nhưng mọi người vẫn cắm cúi làm việc. Tưởng như cái đẹp hùng vĩ kỳ diệu này không hề có liên quan gì đến đời của họ. Lầu Phá Tra gò lưng với chiếc rìu đang đẽo cây cột cái ở phía đầu bãi đất. Không chịu được, tôi đã chạy đến kéo Tra nhìn về phía cây tùng. Anh ngẩng lên, mặt anh ướt đẫm mồ hôi. Vừa hổn hển thở, vừa nhìn về phía cây tùng, đầu anh gật gật không nói một lời. Tôi buồn một giây, trở về chỗ làm việc vì cũng là lúc cái giây phút thần kỳ của tạo hóa đã qua rồi. Những ánh đèn pha đã tắt, những mầu sắc mờ ảo lung linh đã loãng rồi. Mặt trời đã bò lên chỗ ngọn cao nhất của cây tùng.
Về đến chỗ làm một lúc rồi mà tôi vẫn còn băn khoăn mãi, không hiểu Tra gật gật đầu khi nãy là anh cùng đồng ý với tôi cảnh đó đẹp thật, hay ý anh định nói là anh đã nhìn thấy rồi" Tôi lại cúi xuống tiếp tục làm việc, nhưng óc tôi vẫn chảy dài vào một ý tưởng so sánh buồn cười: Khi nhìn một cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, thì lại bảo là cảnh đẹp như tranh vẽ. Nhưng nếu nhìn một bức tranh vẽ thật đẹp, thật tài tình thì lại bảo tranh vẽ như cảnh thật.
Do những yêu cầu về chỗ ở, cho nên hầu hết toán 2 đều phải ra làm nhà hoặc phục vụ cho làm nhà. Nhiều những toán khác, trừ những toán trực tiếp sản xuất ra lương thực không kể, còn hầu hết các toán đều phải băm bã, đan tranh để lợp nhà.
Cuối tháng 8/1970, toàn trại E chuyển ra trại xây, vì ở ngoài ấy đã dựng xong 3 căn nhà và một căn bếp cho trại rồi. Khu kỷ luật cũ vẫn còn lại, như vậy những nét chính cho một trại giam đã hình thành: Có chỗ ở, chỗ nấu ăn và chỗ kỷ luật.
Trước ngày chuyển ra trại xây, lệnh ở trên cục Lao Cải (lao động và cải tạo) tha mười sáu người. Riêng toán 2 có hai anh được về: Lê Sơn, tập trung cải tạo 3 năm mà ở thành 11 năm. Thành Xuân Yên, tội chính chỉ có buôn lậu 5 kg chè búp với án phạt 6 tháng về hình sự. Nhưng khi tù bên hình sự anh lại hay chửi đổng, xuyên tạc chính sách nên trở thành phản động, bị tống sang bên chính trị. Anh phải lãnh cái lệnh tập trung cải tạo 3 năm, nhưng anh cũng đã ở thành 8 năm rồi.
Tôi nhớ lại về anh Yên, trong dịp học tập “lập công chuộc tội…” ở trong tổ học tập một lần anh đã phát biểu: “Tôi thấy đời sống ở trong tù còn thoải mái, dễ chịu, bình yên hơn ở nhà, vì vậy tôi xin biết ơn đảng và nhà nước, tôi muốn ở tù mãi.”
Buổi sinh hoạt có cán bộ chủ trì, lời phát biểu của anh có ghi biên bản. Nhiều người nhìn anh ngạc nhiên, nhất là tôi. Tôi nghĩ đây là một cách nói “lẫy” của anh. Nhưng khi phát biểu, mặt anh rất chân thành, tỏ ra đấy là ý nghĩ thực sự trong lòng anh. Tuy vậy tôi vẫn bán tín, bán nghi. Hôm sau tôi đã lựa lời hỏi riêng anh, anh đã giãi bầy tâm sự:
- Anh thử tính xem, ở ngoài, tôi có vợ và 2 đứa con nhỏ với một mẹ già. Cả hai vợ chồng tôi đều làm cho hợp tác xã nông nghiệp ngay ở quê tôi. Năm nào cũng vậy, cứ chia bình quân đầu người, mỗi tháng là 14 kg thóc. Cả nhà 5 miệng ăn mà chỉ có 28kg thóc, ăn trong một tháng. Bữa cháo, bữa cơm cũng không đủ, rồi cảnh mẹ già thường bịnh hoạn, ốm đau. Vợ chồng tôi phải làm đêm, làm ngày, ngay ban đêm, giấc ngủ cũng không yên mà vẫn túng, đói nên tôi phải theo người ta đi buôn chè, để rồi bị bắt. Tám năm tù. Hai năm sau ngày tôi bị bắt, mẹ tôi đã chết, vợ tôi đã bỏ nhà đi theo trai. Năm ngoái, đứa con trai 10 tuổi chết vì bệnh kiết lỵ. Còn lại đứa con gái 12 tuổi đang bị bệnh hen xuyễn, sống lây lứt trong hợp tác xã. Tôi mà được về bây giờ, tôi còn khổ cực, lo toan hơn ở đây nhiều. Trong tù tuy mất tự do, tuy đói, nhưng bữa nào cũng có ăn. Về quê, lại là người mang cái tội phản động đi tù về nữa, chẳng ai cho mình làm ăn gì, cho nên tôi nói thực với anh là tôi không muốn về.
Ngày chuyển trại, hôm ấy cũng thật là vất vả. Do anh em tù đầy lâu dài, nhiều năm tháng nên đã có kinh nghiệm. Theo nguyên tắc, đồng thời cũng là một kế hoạch của trại giam là mỗi khi chuyển tù từ trại này đi trại kia, cán bộ thường giữ bí mật tối đa. Nhiều khi họ còn tung tin hỏa mù, đánh lạc hướng để cho mọi người tù bị bất ngờ nhất.
Đợt này tuy chỉ chuyển từ một phân trại này qua một phân trại khác của cùng một ban giám thị, vậy mà anh em tù cũng không hề một ai biết. Tuy mọi người có nhiều kinh nghiệm nghe ngóng, thăm dò, bén nhậy bắt, chộp từng hiện tượng, từng lời nói sơ hở của tụi cán bộ mà lại vẫn còn bị bất ngờ về cái không ngờ.
Thường thường nhà tù là hình thức của một xã hội thu nhỏ, cô đọng. Vì là cả một cuộc đời cho nên mỗi người đều có ít nhiều những cái riêng tư, bí mật. Tiền bạc, dao, lược, nợ nần, giấy tờ, hẹn hò v.v… Đùng một cái phải chuyển đi trại khác là mất luôn, thường là cả đời chả gặp lại nhau nữa.
Những tháng trước, do chuyển gỗ và dựng nhà ở trại xây, anh em ai cũng hiểu là sẽ chuyển trại, nhưng không biết khi nào. Khi mò mẫm, thu lượm những nguồn tin từ trăm tai, nghìn mắt của anh em đã nắm được ngày chuyển trại, cho nên ai cũng khôn khéo chuẩn bị ổn định những cái riêng tư của mình. Nhưng không ngờ ngay buổi sáng hôm ấy, khi ban giám thị có lệnh mang hết quần áo chăn, chiếu, công tư trang ra ngoài sân. Ai cũng lo buộc gói cẩn thận để khênh, gánh đi đường, thì bất ngờ được lệnh tổng kiểm tra. Đây là một điều rất hạn hữu, thông thường thì chỉ trại nào nhận tù đến mới khám, mới kiểm tra mà thôi. Chính vì thế, rất nhiều anh em bị tịch thu giấy tờ, sách vở (học Anh, Pháp văn lén lút) thậm chí cả tiền bạc.
Anh Bùi Tâm Đồng mặt nhầu như chiếc giẻ lau, rỉ tai thổ lộ với tôi: Anh có 2 tờ giấy 5 đồng (tiền ngoài xã hội, không phải loại tiền âm phủ của trại), anh đã hao tốn bao công sức đổi chác và giữ gìn từ mấy năm nay trong kế hoạch vượt thoát của anh. Thế mà, nếu anh không có cái nghệ thuật “búng” điêu luyện thì chắc chắn sẽ bị vừa mất của mà còn phải đi cùm nữa. Nghĩa là chỉ cần một, hai giây, hay một cái liếc mắt, dù cán bộ đang vuốt, khám người anh, tiền vẫn có thể vo viên búng đi xa hằng 5 – 6 mét mà không ai nhìn thấy. Từ trước người ta thường chú ý đến đối tượng cho vào miệng nuốt.
Khi ra đến trại ngoài, đã có 4 anh phải vào nhà kỷ luật. Ba anh vì tiền, một anh vì một lá thư có lời lẽ phản động, định lén lút gửi về gia đình, nhưng chưa kịp gửi. Còn lược nhôm, dao và đồ dùng thì bị thu vô kể. Toán 2 và 3 vẫn ở chung, cùng được chuyển vào nhà số một ở gần ngay phía cổng trại. Một chiếc cổng xây kiên cố 2 tầng còn lại không bị phá.
Như trên tôi đã nói, lúc này trại dốc toàn lực lượng để làm nhà và dựng nhà. Dựng nhà cho tù ở, lán cho tù lao động và dựng nhà cho cán bộ ở. Khu vực, đất đai trong vòng tường xây của trại rộng gấp 5, gấp 6 lần trại E. Do đấy từ buồng số I (phía gần cổng trại) xuống nhà bếp lấy cơm nước thật xa đến 300 mét. Bởi vậy, những ai phải phiên trực lấy cơm cho mâm, đều phải chạy mệt nghỉ.
Chỉ hơn 3 tháng sau, khi những làn gió lạnh mùa Đông ở mãi bên Trung Quốc bắt đầu mò về, đuổi dòng tộc những chú ve sầu đi về phương trời khác, thì trại đã tươm tất thành từng khu vực riêng biệt. Từ cổng trại đi vào, ngay phía tay phải là khu C gồm 3 căn nhà mới xây, kiểu cơ bản. Một loại nhà tường xây, lợp ngói, kèo, đòn tay… bằng gỗ xẻ vuông, lắp, ghép lại bằng đinh và bù loong (miền Bắc gọi là nhà kiến thiết cơ bản). Khi chúng tôi được chuyển từ trại E ra, thì đã có 3 căn nhà này rồi. Ba căn này vừa mới xây xong, mới lợp ngói và hoàn tất được 1 căn nhà, còn 2 căn nữa đang lợp ngói dang dở. Hẳn đây là những công trình mà công nhân bên ngoài đến làm. Chắc do sự ngăn cách giữa tù và công nhân xây dựng nên họ đã để lại cho tù làm tiếp. Mặc dù nghe nói như thế, nhưng chúng tôi chẳng thấy bóng dáng một người công nhân nào, có lẽ họ đã đi rồi khi chúng tôi đến.


Về phía tay trái là khu A, khu vực tù chính trị gồm có 4 nhà, mỗi nhà chứa hơn 100 tù. Đi vào nữa là nhà hội trường cho cả khu A và khu B. Khu B phía trong là khu tù hình sự, gồm có 5 nhà. Trừ khu C có 3 căn nhà xây cơ bản, toàn trại nhà đều bằng gỗ lợp phên nứa. Mỗi khu đều có hàng rào kín bằng nứa chẻ đôi, cao chừng 4 mét ngăn cách riêng biệt. Ba khu có 3 cái giếng riêng. Một cái giếng riêng cho nhà bếp nữa, như vậy toàn trại có 4 cái giếng nước.
Trên nguyên tắc, giữa các khu tuyệt đối không được liên lạc quan hệ. Dù vậy, với những cái tinh quái của người tù và những nhu cầu của cuộc sống trong tù, vẫn có một số người dùng nhiều cách, lén lút liên lạc để mua bán, đổi chác: trà, thuốc lá, thuốc lào v.v… giữa hình sự và chính trị. Chỉ có khu C, mới có một căn hoàn chỉnh, tuy đã có tù ở nhưng cách một bức tường cao, chúng tôi chưa biết gì về những người tù trong ấy.
Chung quanh trại là bức tường xây bằng đá hộc cao 5 mét. Tuy vậy phía bên trong vẫn có một hàng rào nứa cao 1 mét rưỡi, cách tường 1 mét, gọi là hàng rào cấm. Không kể nơi cổng, chung quanh trại có 4 chòi gác của công an vũ trang.
Như vậy vào cuối năm 1970. Trại chính trung ương số I Phố Lu, Lào Cai hay gọi là K1, xấp xỉ trên dưới một ngàn tù nhân, trong đó có hơn 400 là tù chính trị. Trại lúc này, vẫn do tên Phạm Huy Tân từ trong trại E ra làm trật tự, cả khu A và khu B. K2 là trại nữ cách K1 khoảng hơn một cây số đường chim bay. Còn K3, K4 và K5 thường ở rải rác trong rừng. K này cách K kia chừng 4 - 5 km.
Được chuyển về trại xây, đối với tôi có ý nghĩa và thích thú nhất là ở hội trường có một thư viện con con, do một anh tên là Phạm Thành trông coi, quản lý. Anh là giáo viên cấp 2, bị tội hủ hóa, thuộc bên hình sự. Điều này thật là bất ngờ đối với tôi. Trước đây tôi không bao giờ nghỉ tới và cũng chả có ai nói với tôi, trong trại giam lại có thư viện.
Tôi nhớ lại, sau ngày chuyển ra K1 này hơn 2 tuần lễ. Sau những ngày bận rộn túi bụi buổi ban đầu cho tạm ổn chỗ ăn, chỗ ở. Tôi chưa có thì giờ nhìn hình thể cái trại nó ra sao, chứ đừng nói mò mẫm ra hội trường làm gì.
Một buổi trưa, sau 4 giờ liền, lao động dựng nhà mệt nhọc, về nghỉ ăn cơm. Ăn xong, tôi xách túi bát đĩa vào buồng, chuẩn bị đánh một giấc ngủ ngày mươi phút. Thoáng thấy anh Lê Liễu, nằm ở sàn dưới đang mải mê đọc một cuốn sách thật dầy. Trông thấy sách như trông thấy hoa, tôi xán đến. Đang nằm, quay lại, thấy tôi, anh bò nhổm dậy tươi cười, nói nhỏ:
- Ngồi chơi anh Bình!
Phần vì không muốn làm phiền những người bên cạnh đang ngủ trưa, phần khác, cũng chẳng muốn quấy rầy chính sự yên tĩnh của anh, nên tôi chỉ vào tập sách anh đã gập lại, hỏi khẽ:
- Anh đọc sách gì thế"
Lúc tôi hỏi anh cũng là lúc tôi đã nhìn thấy nhan đề cuốn “Chiến tranh và hòa bình” của Léon Tolstoi, khi anh đẩy cuốn sách nghiêng nằm ra. Bởi vậy tôi hỏi tiếp là sách của anh hay của ai"
Khi anh cho biết là trại có một tủ sách ở ngoài hội trường, tôi vội cám ơn anh và đi ngay lên hội trường. Vì muốn qua sông nên phải lụy đò, vì yêu sách nên tôi phải yêu cả người coi sách là chuyện cuộc đời rồi, nhưng còn một lý do nữa cũng không thể bỏ qua: khi hai người cùng một sở thích thì thường mến nhau. Anh Thành thích sách và tôi yêu sách nên dễ dàng trở thành bạn.
Thư viện trại I, nói là thư viện là nói theo lối ăn to, nói lớn của Cộng Sản, chứ thực ra cũng chỉ có khoảng hơn 400 cuốn sách. Đa số là sách lý luận chính trị, rồi đến nông trường, nhà máy, khoa học kỹ thuật. Tuy vậy có một số sách dịch cũng đáng đồng tiền bát gạo: Ruồi Trâu, Sông Đông Êm Đềm, Người Thứ 41 v.v…dịch từ sách của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong trại, giai đoạn ấy có một cuốn sách khó mượn nhất, vì thường có đến hàng chục người "đăng ký" chờ mượn rồi. Đó là cuốn “X30 phá lưới”, một câu chuyện tình báo tưởng tượng khá ly kỳ, hấp dẫn giữa tình báo miền Bắc và đệ nhất Cộng Hòa miền Nam. Vai chính trong truyện là Phan Thúc Định, một tên điệp viên cao ráo, đẹp trai, học thức được cài vào cơ quan đầu não của chính quyền miền Nam. Nó tung hoành, xỏ mũi ông Nhu, bà Trần Lệ Xuân cho đến các tướng, tá. Thậm chí cả những tên CIA, Mỹ kếch xù, cũng bị Định dắt cho đi chơi mát.
Theo quy định, mỗi tù nhân được mượn một cuốn sách trong một tuần. Nếu cuốn sách nào hay, có khi phải "đăng ký" chờ 4 – 5 tháng sau mới được đọc. Nhưng như trên tôi đã thưa rồi, tôi và anh Thành đã trở thành bạn. Tôi nghiễm nhiên được đứng hàng thứ nhì trong 4 cái tiêu chuẩn, có nội lực vô cùng thâm hậu trong sinh hoạt xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt: Nhất ngoặc (tiền) - Nhì thân (bạn, thân thuộc) - Tam thần (có quyền) - Tứ thế (quen biết những người có chức, có quyền).
Tôi chỉ chịu thua có đồng tiền. Vì đồng tiền trong một cái xã hội nghèo đói, thì uy lực của nó càng kinh hồn. Vì tiền là bà tiên, ông phật có khả năng hoán chuyển tất cả mọi vấn đề theo ý mình muốn. Tóm lại, tủ sách trại I do anh Thành quản lý, tôi tha hồ thao túng, và cũng từ đấy tôi miệt mài bạn bè với sách vở.
Tôi chuyển đổi ý đồ của Cộng Sản. Chúng dùng sách báo để tuyên truyền, cải tạo tư tưởng của phạm nhân. Tôi lại dùng sách báo của chúng như những điểm tựa, những cơ sở để thắp lên ngọn đèn pha soi sáng thực tế. Dần dần cho phép tôi nhìn sâu vào bản chất của chế độ Cộng Sản.
Dạo này nhân số của trại càng ngày càng đông. Không những ở bên phía khu B hình sự, cứ vài ngày lại có một nhóm tù đến mà ngay bên khu A chính trị cũng vậy. Hôm qua có một nhóm 4 người mới nhập trại. Hai người về toán 3 xẻ, hai người về toán 2 mộc. Qua dáng dấp và cách ăn mặc, tôi có cảm tưởng cũng là người của miền Nam như chúng tôi.
Quả vậy, sáng hôm nay, một anh được phân công đi theo tôi làm thợ phụ, học làm nhà nên tôi đã hiểu sơ sơ: anh tên là Nguyễn Cao Sơn, chuẩn úy, sĩ quan Thủ Đức khóa 20. Án phạt 20 năm. Một anh nữa cũng ở toán 2 là người Tầu. Anh tên là Trương Nàm Tráng, án phạt 12 năm. Hai người nữa ở toán 3 (xẻ) là Nguyễn Như Ánh – Án phạt 15 năm; Trần Quốc Quang - Án phạt 10 năm. Anh này cũng là người Tầu, nói tiếng Việt còn chưa rõ.
Mấy hôm sau, tôi nghe dư luận: nội vụ của toán biệt kích này, có một vài ẩn khúc không bình thường. Tôi chủ trương, sau này có dịp sẽ tìm hiểu kỹ lại.
Chương Bốn Mươi Lăm: Một Căn Bệnh Thần Kỳ
Chiều hôm qua, một câu chuyện của anh Lê Văn Bưởi làm cho tôi và có lẽ cả khu A chính trị không thể quên được. Như tôi đã nói trước đây, khi còn trong trại E, anh Bưởi cứ lẽo đẽo cắp vở theo học lớp 2 bổ túc văn hóa vào những buổi trưa của trại. Lúc đầu còn nhiều anh em bàn tán, xầm xì; nhưng mãi rồi cũng thôi. Phần tôi nhìn về anh, vì anh và tôi càng ngày càng thân hơn do giống nhau ở nhiều điều kiện nên được nhiều chi tiết cụ thể hơn. Những tháng đầu anh mới chuyển về trại E, mặt anh thường tươi vui phấn chấn. Có thể vì anh còn đang ấp ủ một niềm hy vọng tràn trề trong lòng theo như anh đã tâm sự với tôi: “tôi có rất nhiều công lớn với đảng và nhà nước.” Nhưng rồi niềm hy vọng của anh cứ phai lạt dần theo thời gian, để rồi chính anh cũng chẳng còn bao giờ nhắc điều đó với tôi nữa.
Sau khi chuyển ra trại xây, trại chính này hơn một tuần. Một đêm mưa rơi tầm tả làm thao thức, khắc khoải bao tâm hồn người tù. Sáng hôm sau, cái chân phải của anh Bưởi, không hiểu vì sao đó bị co rút gập lại, anh không đi lại được nữa. Cán bộ và y tế vào buồng khám, chỉ thấy anh rên rỉ, kêu la đau đớn. Họ nắn bóp, sờ mó chân anh nhưng chưa thể kết luận là bệnh gì. Nhìn cảnh sinh hoạt của anh ai cũng mủi lòng, thuơng hại.
Theo quy định của trại, ban ngày không ai được vào nhà cầu trong buồng để đại, tiểu tiện. Vả lại người làm vệ sinh đã lấy thùng đi từ sáng sớm rồi. Mọi người ốm bịnh ở lại buồng đều phải ra nhà cầu công cộng của trại. Anh Bưởi không đi được, nhẩy lò cò thì đau đớn, vì thế nhiều lần anh phải bò, lết đi ra rửa ráy. Những hôm nắng ráo đã đành, vào những ngày mưa dầm ướt át thì thật khốn khổ cho anh. Cũng có nhiều anh em thông cảm, trông thấy nên đã dắt dẫn anh đi.
Phải nói tôi rất thương anh. Anh cũng như tôi, một thân, một mình chẳng may rơi xuống vực thẳm của đời, đành lầm lũi, lê kiếp sống lầm than trong ngục tù tăm tối đã thối ruỗng, não nề cõi lòng rồi. Bây giờ lại bị bán thân bất toại nữa thì còn cay đắng tủi cực đến đâu.
Chính vì thế, nhiều đêm tôi đã chui sang màn anh, thăm hỏi, ủi an, xoa bóp chân cho anh, đã nhiều lần tôi phải cõng anh ra nhà cầu của trại, cũng như ra rửa ráy, giặt giũ. Hơn một tháng sau, hôm ấy, khi toàn trại đã đi lao động có một trung úy là bác sĩ trên tỉnh (Lào Cai) vào buồng khám bệnh cho anh Bưởi. Ông bác sĩ, có cán bộ y sĩ trại là thượng sĩ Thìn đi theo. Sau đấy, cả tên Đức trưởng ban giáo dục trại, rồi Thạc y tá của trại. Một đoàn người kéo vào buồng I để khám bệnh cho anh Bưởi.
Người ta dùng ống nghe, dùng vồ con gõ, đập khớp xương. Cuối cùng, một người khoác nách, hai người cầm chân anh Bưởi, họ ra sức kéo thẳng ra. Anh Bưởi đau đớn, kêu như bò rống, nhưng khi họ bỏ chân anh ra, nó lại gập lại như cũ. Phần vì không có thuốc để tiêm, phần khác không có đủ phương tiện để khám nghiệm cho nên chân anh Bưởi cứ đành bị gập như vậy. Cứ như thế kéo dài 3 – 4 tháng sau. Dĩ nhiên là anh Bưởi không đi lao động được.
Anh được ban giám thị cho tổ kỹ thuật của Đinh Sơn làm cho anh một cái nạng gỗ thật nhẹ và đẹp. Từ đấy cuộc đời anh đỡ nhiều nỗi khó khăn trong sinh hoạt. Trong buồng, nhất là những anh nằm gần anh Bưởi, họ nhìn thế nào về anh thì tôi không được biết, riêng tôi, cũng có lần tôi đặt vấn đề suy nghĩ. Tất nhiên, trong cuộc sống của con người, ai cũng đầy rẫy những vấn đề phải lo lắng suy nghĩ rồi, đâu cần bận tâm suy nghĩ về những câu chuyện của người khác. Nhưng sự việc cứ bầy ra trước mắt hàng ngày, nên rồi cũng có lần phải suy nghĩ tới. Nếu anh Bưởi không có bệnh, chân anh cứ co quắp suốt ngày đêm như vậy, thì làm sao anh chịu được. Nó sẽ bị tê buốt nhức nhối. Có lẽ những tên cán bộ giáo dục và những tên cán bộ y tế, cũng nghĩ như thế. Cho nên, một hôm chúng nó lại xuống buồng giam của anh, dùng băng quấn chặt chân anh Bưởi lại. Chúng xỏ lá nói là phải buộc như vậy để cái máu tê xuội nó không thể chạy lung tung khắp người, có khi nó còn chạy sang chân bên kia nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.