Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

16/08/200900:00:00(Xem: 3223)

Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Toán biệt kích của Nguyễn Cao Sơn tên là STRATA 120. Ra Bắc ngày 14- 5-1968, toán gồm 6 người. Nguyễn Đình Lánh một chuẩn úy là toán trưởng (đã chết). Trần quốc Quang, Trương Nàm Tráng toán viên (người Việt gốc Tàu), Nguyễn ngọc Anh, Nguyễn Như Ánh hiện nay ở Chicago. Nguyễn Cao Sơn cũng là một chuẩn úy của trường Thủ Đức. Chính vì một toán biệt kích lại có 2 chuẩn úy nên mới xẩy ra nhiều chuyện đáng tiếc sau này, khi vào vùng hoạt động mà đã bị lộ. Hiện nay, Nguyễn cao Sơn đã tới Mỹ, nhưng tôi không rõ tiểu bang nào.
Mấy ngày nói chuyện với Quách Rạng tôi cũng có hỏi sơ sơ được biết: Toán của Quách Rạng là GRECO ra Bắc ngày 14-11-1964. Toán gồm có 7 người: Đinh công Bích, Toán trưởng. Dân tộc Mường. Bích là Trung úy (xuất thân trường Võ Khoa Đà Lạt, rớt ra chuẩn úy). Chết năm 1979 tại trại Tân Lập (vợ có được lĩnh tiền của bộ quốc phòng ở Mỹ). Bùi văn Cởi (chết trận). Quách Hinh, truyền tin phó, hiện ở Atlanta, Hoa Kỳ. Đinh thế Hùng, Truyền tin (chết ở trại Vĩnh Quang 1968). Đinh công Ngọc, Truyền tin trưởng. Hiện ở Chicago. Quách Rạng hay Quách Thái Bằng, phụ tá toán trưởng. Hiện ở Atlanta. Quách công Tiếng (Hạ), toán phó phá hoại. Hiện ở Atlanta.
Gần một tháng sau, những tin rỉ ra từ hướng này, hướng kia tôi biết là Vòng A Cầu ở toán biệt kích CANCER đã rủ Lê Trung Tín của toán RED DRAGON chạy sang Trung Quốc. Rồi sau đó kéo thêm Lý Cà Sa nữa.
Sau này nghe dư luận Lý Cà Sa có cầm quân Trung Quốc đánh sang tỉnh Lào Cai, trong đợt Trung Quốc vượt biên giới tấn công VN để dậy cho CSVN một bài học 17/2/79. Còn Vòng A Cầu, nghe đâu vẫn còn ở bên Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Đông" Riêng Lê Trung Tín hiện nay đã ở Mỹ nhưng tôi cũng chưa rõ ở tiểu bang nào" Mới đây, 12/2004 tôi nghe nói loáng thoáng: Tín đã từ Trung Quốc vượt trở về Việt Nam, rồi đi HO. sang Mỹ. Ở Colorado.
Bản thân tôi cũng đã nhiều đêm ngày tâm tư bị bóp nặn, giằng co: Nếu buổi hẹn 9:30-10:00 tối hôm ấy ở ngã ba cây Sồi, tôi thực thi lời hẹn thì sao" Thì có muôn ngàn tình huống tôi không thể biết. Nhưng có một tình huống tôi biết chắc: Tôi không được cái vinh dự, ngồi viết những dòng tường thuật này, để các qúy vị độc giả nhìn lại một vài góc cạnh của một cuộc chiến "nồi da, nấu thịt". Và một góc đen tối, ở phía Bắc quê hương thương đau của chúng ta.
Tôi bị bắt trở lại chừng gần 2 tháng. Một buổi sáng sớm khoảng 4 giờ, trật tự và cán bộ đã mở cửa vào buồng. Tuyên bố tất cả mọi người chuẩn bị công tư trang để chuyển trại. Mười lăm phút sau tất cả tù đều phải ra ngoài. Như một đàn gà được chuyển chuồng, rầm rập: chạy lên, chạy xuống, chạy ngược, chạy xuôi, đôn đáo ai cũng tự lo cho mình. Cán bộ lại mở cửa, lần lượt hàng đôi ôm đồm chăn chiếu tiến ra sân.
Trời còn tối đen, ở sân đã có 2 chiếc xe chở khách đã tã, mầu sơn long lở. Cán bộ nhà bếp, trật tự và một anh bếp hình sự gánh đến một gánh bột mì luộc, lần lượt phát theo hàng mỗi anh một miếng mì luộc, chừng gần 2 lạng trong miếng lá chuối. Hơn 8 chục biệt kích chèn nhét lên hai chiếc xe thời cà cộ.
Chẳng một ai biết là sẽ chuyển đến trại tù nào" Riêng tôi cứ băn khoăn ngẩn ngơ. Như thế là tất cả: hình ảnh, thư từ, giấy tờ đã bị họ tịch thu khi bị bắt vào, bây giờ chuyển trại là coi như mất tiêu hết.
Tiếc nhất mấy tấm hình anh Tâm y tá chụp cho. (Sau này không ngờ Lê văn Kinh, lại không bị tịch thu, Kinh còn giữ được, ở Florida, Kinh đã gửi cho tôi). Chả cần tường thuật lại cái cảnh 2 người một khóa của cuộc chuyển tù, biết bao khó khăn, khổ cực trong những sinh hoạt cá nhân. Tâm trạng người nào cũng ngơ ngác như đi giữa sa mạc, chẳng biết một hướng nào và về đâu"
Tôi cố căng mắt nhìn cảnh vật, vận dụng cái trí óc của người rừng dân tộc để suy đoán. Qúa trưa, chúng tôi đã xác định xe ngắc ngư bò về miền xuôi. Tôi cũng thấy hơi lạ, đã từ hàng chục năm xưa tù chỉ có chuyển về miền ngược, miền núi rừng, giờ đây lại chuyển tù xuôi về đồng bằng. Do đều không biết nên anh em suy đoán linh tinh, tỉnh nọ, tỉnh kia, trại nọ, trại này v.v…
Gần chiều muộn hai xe ngừng lại trên một con lộ ở giữa cánh đồng lúa. Nhìn xa xa chung quanh là những xóm giềng của những nhà tranh và những lũy tre làng. Mươi phút sau, hai xe lại bắt đầu chuyển bánh. Đến một ngã ba, có một con đường đất rẽ vào làng, xe tiến vào. Đã có nhiều kinh nghiệm ở những nhà tù miền Bắc. Miền xuôi, thì phải có tường xây cao kiên cố, như Hỏa Lò chẳng hạn. Vì thế khi được lệnh của các cán bộ, có súng có ống bảo, tất cả xuống xe. Chúng tôi hầu hết đều ngỡ ngàng e ngại, chẳng lẽ họ cho chúng tôi đi ngủ, ở giữa cánh đồng này"
Tay bị khóa, và ôm vác trong cánh đồng chiều, theo các ông súng ống. Đi hàng đôi, chừng 5 - 600 mét, chúng tôi đã nhìn thấy những bức tường xây ẩn trong những lũy tre cao. Càng gần đến, càng thấy cái bề thế, của một trại tù lớn trong lũy tre, lại ở giữa một cánh đồng lúa đã chín vàng. Văng vẳng tiếng ễnh ương, tiếng côn trùng nỉ non, của đồng nội quê nghèo.
Vào đến trong trại, khi đã được mở còng tay, mới càng thấy qui mô của cái trại. Rất nhiều khu nhà xây, tường xây cao với những mảnh chai, dây điện chăng, cắm phía trên. Chúng tôi được dẫn vào một khu phía trái, trong một căn nhà xây, cũng sàn trên, sàn dưới bằng gỗ như của một trại tù miền ngược.
Điều đặc biệt vui là gặp lại mấy chục anh em biệt kích, ở trại I Lào Cai từ đầu 1972, chuyển đi trại Hoành Bồ Quảng Ninh. Anh chàng Nguyễn Huy Lân "mều" và Hoàng Mạnh Hùng cứ nắn, bóp tay tôi ríu rít. Lân Mều mở to mắt đập tay vào vai tôi:
- Sao chúng mày lại về đây"
Chẳng ai trả lời! Vả lại làm sao biết mà trả lời. Chỉ một lúc sau, chúng tôi đã biết: Đây là trại T 52 Hà Sơn Bình. Có rất nhiều quân cán của chính quyền VNCH bị giam giữ tại đây. Hàng chục năm mới gặp lại nhau, với bao nhiêu diễn biến của quê hương: Hội nghị Paris, Sài Gòn bị "đứt phim", rồi mỗi cảnh đời tù của mỗi phía để trao đổi, hàn huyên. Xin xếp lại đấy, hãy nói những điều hiện tại và phía trước đi tới.
Tôi, Kinh và mấy anh em nữa được phân về đội mộc của anh chàng Lân "Mều". Kể cũng lạ, hàng chục năm, ngay từ đầu 1968 đến giờ 5 lần, 7 lượt chạy nhiều hướng tù, mỗi người mỗi lối, cuối cùng vẫn anh chàng "Mều" này làm đội trưởng.
Trước đây gọi là toán, bây giờ đổi là đội. Chuyện lớn đổi thay, chuyện nhỏ cũng thay đổi. Đổi thay luôn luôn, tên nước, tên Đảng, tên cơ quan, tên tổ chức, kể cả hiến pháp. Từ đấy, bây giờ họ đặt là thành phố HCM, rồi đây ai cũng thấy một ngày nào đó, sẽ đổi thành một cái tên khác. Cho nên ví tượng trưng chế độ CS = con Bồ Nhông thì cũng không sai. Con Bồ Nhông luôn luôn thay đổi mầu, theo thời tiết và ánh sáng. Sáng, trưa, chiều, tối, nắng, mưa v.v… Vì sao và mục đích nó phải thay đổi mầu, để làm gì" Hỏi để mà hỏi, chứ ai cũng trả lời được, vì ai đã ở nhà quê hay miền rừng núi, cũng ít nhiều thấy nó rồi. Con bồ nhông phải thay đổi mầu của nó, chỉ vì muốn làm mờ mắt: 1/ Đối thủ: Thằn lằn, tắc kè, bọ cạp, rắn mối v.v… (Những nước nào" Những đối tượng nào" Tự suy). 2/ Kẻ đại thù, kẻ muốn sơi thịt nó: Diều hâu, cú mèo, quạ đen, hải âu v.v… (Nước nào, người nào. Tự thấy).  3/ Con mồi: Cào cào, dế, bọ xít, bọ ngựa v.v…  (Nước nào, đối tượng nào. Tự suy ngẫm).
Không những làm mờ mắt các đối thủ, kẻ đại thù mà còn làm mờ mắt các con mồi của nó. Con nào nó đang ăn và sẽ ăn, chính con mồi cũng không hề hay biết. Cho nên, xin đừng coi thường, để rồi quên đi: Dù nó có thay đổi như thế nào, nó vẫn là con bồ nhông mà thôi.
Tôi theo đội mộc của Nguyễn Huy Lân đi làm. Ra khỏi cổng trại rẽ về phiá trái chừng 250 mét là tới lán mộc. Lán mộc ở đây cũng lợp ngói kiểu nhà "kiến thiết cơ bản" nhưng vách, tường không có. Toàn bộ lán chừng 2 chục cái cầu bào, cho những người thợ chính.


Cán bộ đội mộc, tôi đã thấy từ khi y vào khu biệt kích trong trại. Da y trắng trẻo, tôi cứ có cảm tưởng y là loại tạch tạch sè (tiểu tư sản) vậy mà y lại có cái tên là Hồng Thắng Tài. Ngay cái tên y cũng đã thấy khái niệm. Không biết do bố mẹ y đặt, hay y tự chọn lấy sau này" Đầy nịnh bợ và cũng tràn ắp lòng tin vào "chiếc bánh vẽ" của CS. Một lòng theo Đảng, thì còn hơn là người có tài. Lân đã biết khả năng nghề nghiệp của tôi, và đã trình bày với tên Tài. Tên Tài đã phân công cho tôi, đóng một chiếc ghế lệch kiểu Đức.
Ngay buổi chiều hôm ấy, đội mộc ra khỏi lán trở về phía trước cổng trại. Một cảnh tượng đã hằn vào lòng tôi, đã cuốn chặt vào hồn tôi cho tới bây giờ, vẫn chưa lới lỏng. Cả một cái sân lớn phía trước cổng trại: Ngồi kín những binh lính của VNCH, quần áo rằn ri hoặc xám, chỉ có khác là không có súng ống. Lẫn vào đây đó có những tên áo vàng (cán bộ) và mầu xanh đeo súng là những tên công an võ trang. Nhìn chéo ra những cánh đồng lúa, trên những con đường đất dẫn về cổng trại, thỉnh thoảng một đoàn quân đội VNCH xếp hàng đôi tiến về cổng trại, theo sau có một tên công an võ trang "oắt tì" đeo súng áp tải.
Bây giờ đọc đoạn này, có còn ai thấy lòng dạ thế nào không" Chứ khi ấy, giai đoạn ấy ruột gan của tôi như vặn vò, rướm máu. Nhất là lại là buổi ban đầu sau 16 năm, nằm trong ngục tù. Hôm nay tôi mới nhìn thấy, những chiến hữu ruột thịt nhớ thương, khao khát của mình.
Hơn một tuần sau, tôi đã có một chút khái niệm về cái trại giam đặc biệt, Hà Sơn Bình này. Khoảng trên dưới 900 tù nhân, hầu hết là quân cán của chính quyền miền Nam. Đặc biệt là có 2 đội, VC gọi là "bò lục" chừng hơn 9 chục, toàn là đại tá của VNCH. Cứ sau khi toàn trại đi lao động, hai đội này mới được ra quét dọn, nhặt cỏ, những công việc vặt vãnh không cần chuyên môn.
Anh em cho biết đã có lần, 2 ông đại tá trong những ngày nghỉ, đã trèo vào khu biệt kích lén lút chuyện trò, có biệt kích "ghếch" áo vàng. Đặc biệt hơn nữa, cũng anh em cho biết: Trong một khu đối diện phía bên kia, kiên giam toàn là tướng và hàng bộ trưởng, không có ra làm việc bên ngoài. Lòng tò mò tìm hiểu của tôi được khích lệ, lòng tự nhủ lòng: Được! Tôi còn ở đây rồi sẽ biết!
Cũng nguồn tin từ các ông "bò lục", khi VC chiếm được miền Nam, nhiều kho vũ khí, và quân nhu còn lại, ta chưa kịp phá hủy. Bây giờ chúng lấy những bộ đồ đó, đành rằng chúng có thể đổi chác với các nước chung quanh, dân chúng của VC còn thiếu quần áo mặc, nhưng bao giờ chúng vẫn dành ưu tiên cho tuyên truyền. Bắt những tù VNCH mặc quần áo mới đó, CS có những điều lợi: Càng khoét sâu, làm thối ruỗng ý chí của những người tù, mà đàng nào cũng phải cung cấp quần áo tù lao động, cho họ (nhất cữ lưỡng tiện). Những cán bộ, những người dân qua lại, chứng kiến càng nức lòng hồ hởi tung hô tài ba vô địch của chủ nghĩa CS chuyên chính, (nhất cử, tam, tứ tiện). Tại sao chúng không làm"
Từ khi còn mồ ma HCM, VC luôn luôn kêu gọi đồng bào miền Bắc thắt lưng, buộc bụng để chi viện cho đồng bào miền Nam đang bị đói khổ, lầm than trong tay đế quốc và tay sai. Nhưng sau khi chúng cưỡng chiếm được miền Nam, không những nhân dân miền Bắc đã bật ngửa ra, mà ngay cán bộ của CS cũng không thể ngờ. Cụ thể tên bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (giai đoạn ấy) đã thốt lên: "Không ngờ, đời sống của miền Nam trù phú thật". Tôi đã đọc được câu nói của y trong một bài báo "Đảng ta thắng lớn" trên tờ QĐND cuối năm 1975.

Mười lăm: Gặp lại người xưa

Được hơn một tháng, qua một vài hiện tượng, một vài nét chúng tôi đều nhìn anh em bên Z. (Giai đoạn ấy VC gọi những người tù của VNCH sau 1975 là Z). Các anh có vẻ qúa lịch sự, trở thành lễ phép khác thường, với tụi cán bộ áo vàng. Những ngày nghỉ các anh bách bộ, hay chuyện trò với nhau, trong sân trại. Bất ngờ có một tên áo vàng đi vào, dù các anh đang tụm 5, tụm 3 nói chuyện, các anh đều quay lại, hai tay đan ngón lại, đầu hơi cúi:
- Xin chào cán bộ ạ!
Tôi hiểu VC đã nghiên cứu ra những nguyên tắc tinh vi như: 4 tiêu chuẩn cải tạo, 8 điều nếp sống văn hóa mới v.v… Chúng nhấn mạnh nhất là vấn đề lễ phép: "Tiên học lễ, hậu học văn". Chúng cố ý mập mờ cho những quân cán VNCH bị tù, tự thấy: Được tha về sớm hay muộn, ở trên xét để các anh được về với gia đình vợ con, làm lại cuộc đời. Yếu tố đầu là hạnh kiểm: Ngoan ngoãn và lễ phép.
Các anh em Z không đáng trách một chút nào, các anh mới bị bắt 1- 2 năm. Trong khi ngay những biệt kích chúng tôi đã tù 16 - 18 năm rồi, cá biệt có những anh còn nghĩ: Phải lễ phép với cán bộ thì mới sớm được về!
Một sự việc cũng hơi buồn cười: Hai, ba đội trong khu biệt kích xuất, nhập trại thường báo cáo như hàng chục năm trước, ở các trại tù khác. Nhưng không hiểu sao buổi chiều hôm ấy, Nguyễn Huy Lân dẫn đội mộc, về tới cổng trại. Như mọi khi Lân điểm sơ lại số tù của đội, rồi tiến lên trước cổng đứng nghiêm:
- Báo cáo cán bộ, đội mộc xuất 43, nhập 43 đủ!
Tên cán bộ trực trại cầm sổ đứng một bên, tên thiếu úy vũ trang cầm sổ đứng một bên vẫn đứng yên, không bảo hay ra hiệu tay cho toán vào. Đội mộc cứ đứng giữa cổng, cán bộ cũng không nói năng gì. Hai bên đứng yên thi gan đến 2- 3 phút, trong khi các đội bên Z đang túa từ các ngả về cổng trại. Tôi đã thò một ngón tay, kết hợp với mắt ra hiệu với Lân: Dứt khoát, thà chết "cứ đường cũ mà đi".
Rất nhiều đội Z chứng kiến, vì họ cũng đang chờ đến lượt, báo cáo vào trại. Cuối cùng tên trực trại và tên vũ trang đưa tay ra làm hiệu, gạt đội mộc dẹp vào mé tường xây bên cạnh. Tên Tài cán bộ của đội, và tên vũ trang đều vào cổng. Chúng bàn luận với nhau thế nào không rõ, chúng tôi 43 người đều ngồi xuống. Từ nãy, Lân đã giải thích cho anh em:
- Tất cả các đội Z, sau khi đội trưởng báo cáo xong số tù, phải nói một câu: "Xin cán bộ cho vào!"
Mấy đội biệt kích thì không chịu nói, 5 cái từ đó, mà từ trước chẳng trại nào có.
Tâm trạng của mọi người tù, đi lao động cả buổi về, vừa đói vừa mệt nhọc, ai cũng muốn về sớm để tranh thủ lo chuyện cá nhân của mình. Ngay trong đội đã có một vài anh muốn tỏ ý: Thôi hãy chịu thua đi! Hãy vào, biết phép đứng nghiêm nói: Xin cán bộ cho vào! Nhưng hầu hết anh em quyết tâm, dù có phải ngủ ngay chân tường của trại, cũng sẵn sàng.
Bao nhiêu đội Z, cả những đội về muộn họ đều nhìn đám biệt kích này. Kẻ đứng người ngồi như những đám tù "đoàn tù lê thê cất bước đi trên đường".
Trời thẫm dần, đã nghe những tiếng rên rỉ của đám côn trùng từ đồng ruộng vọng về. Những hơi rơm nồng và rạ ẩm luồn vào trong gió, từ ngoài đồng lách vào mũi của những anh tù biệt kích. Tôi ngồi dựa vào vai anh Quách Thức, mắt hết nhìn những đám mây vừa đen vừa xám đang vần vũ trên trời, lại nhìn 3 tên vũ trang uể oải, thỉnh thoảng lại dậm chân, khua tay cho đỡ mỏi người, vì không được ngồi như chúng tôi. Ba tên này là thiệt nhất, vì cứ phải đứng và phải coi đám tù "mất dậy" này. Trong khi gần 2 chục tên áo vàng, đủ loại bàn tán trong cổng trại.
Chúng tôi nắm được cái thế: Chúng tôi đã làm đúng như các trại tù khác! Đồng thời chúng tôi hiểu rằng: Có cho thêm vàng, những tên loe ngoe ở cổng trại, cũng không dám để chúng tôi ở ngoài. Bậc thầy của chúng, cũng chả dám để loại tù này, ở ngoài trại suốt đêm.
Đúng như nhận định của chúng tôi. Hơn một giờ sau, tên trực trại được lệnh trực tiếp của Tổng giám thị, phải để tụi tù biệt kích vào trại, không phải nói: Xin cán bộ cho vào!
Vào tù mà lại phải xin vào là thế nào"
Trời đã cập quạng, gà đã lên chuồng, đoàn tù biệt kích chúng tôi qua cổng vào trại, trước những con mắt màu nâu xám của đám cán bộ ở cổng. Chắc chúng đã họp hành, trao đổi với nhau. Từ hôm ấy tụi cán bộ áo vàng, áo xanh nhìn chúng tôi với những con mắt, con ngươi mầu đỏ quạch, khác thường.
Chẳng bao lâu, lại xẩy ra một chuyện nhỏ khác nữa. Hơn một tuần sau, tôi được lệnh của cán bộ đội mộc, về cổng trại để đo chính xác cái bàn của trực trại (thay cái bàn khác). Trên con đường trở về lán mộc (hơn 200 mét), từ xa thấy một tên Trung úy áo vàng đi ngược chiều. Để tránh khỏi phải chào thưa lôi thôi, tôi vờ nhìn cái chòi gác của công an võ trang trên tường của trại giam, phía trái. Khi tôi đi qua tên Trung úy, gọi giật lại vẻ hách dịch:
- Anh kia, anh tên gì, ở đội nào"
Tôi quay lại, như bây giờ mới thấy y. Tôi tỏ thái độ nhã nhặn:
- Cán bộ hỏi gì, tôi chưa nghe rõ ạ"
Hằn học, y cộc lốc:
- Đội nào, tên gì"
Tay trái đang cầm cái thước gỗ, tôi chuyển sang tay phải. Thái độ của tôi cố như tỏ ra, muốn quật cho y một cái, làm cho y hơi như lùi lại thủ thế, nhưng mặt tôi lại tỏ ra thản nhiên lễ phép:
-Thưa là ĐCB, đội mộc ạ!
Y rút cái bút và một cuốn sổ nhỏ ở túi áo ngực ra ghi vào, rồi y đi luôn vào cổng trại, không nói thêm một lời.
Tôi biết sẽ có vấn đề, nhưng tôi chấp nhận.
Về lán mộc, tôi đã nói cho Lân nghe sự việc, tôi yêu cầu ủng hộ. Từ lâu, tôi và Lân vẫn có hiểu ngầm nhau đặc biệt. Tôi cũng định nói trước toán, nhưng tôi hiểu có những đường giây riêng với cán bộ, nên tôi chỉ nói nhỏ với Hoàng Mạnh Hùng, và Lê Văn Kinh.
Cả buổi trưa, cho tới khi đội đi làm, cũng không thấy gì. Chiều hôm ấy, sau khi khu biệt kích cơm nước xong, có 3 tên cán bộ đi vào, đi đầu là Hồng Thắng Tài, cán bộ đội mộc, rồi đến tên Trung úy tôi đã gặp buổi sáng, và tên Thiếu úy trực trại.
Tên trực trại (sau tôi biết là Toàn) gọi cả 3 toán trưởng biệt kích là Nguyễn Huy Lân (Mộc), Trương Bá Ngữ (may) và Nguyễn Xuân Sang (đan lát, rèn). Tên Toàn cho lệnh tập họp toàn khu biệt kích.
Giữa cái sân con của khu, có một cái bàn với 3 cái ghế để tụi cán bộ ngồi, sau khi tù đã ra đầy đủ gồm hơn 130 biệt kích, xếp hàng thành 3 đội. Hầu hết toàn khu biệt kích không ai hiểu vì sao lại tập hợp như thế, chỉ có vài người chúng tôi biết nguyên nhân. Phần tôi đã chấp nhận, dù có phải bị cùm, kỷ luật.
Tên Tài giọng lẫn đờm gọi to:
- Anh ĐCB!
Tôi giơ tay và ra khỏi hàng, đứng phía cuối. Y vẫy tay, giọng khàn, tiếp tục:
- Anh lên trên này!
Khi tôi đến gần, y chỉ tên Trung úy hỏi:
- Anh có biết ông cán bộ này, là ai không" (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.