Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

10/09/200700:00:00(Xem: 2242)

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc Châu, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.
Phải nói rằng, từ ngày chúng đưa tối đi bắn đến giờ, tôi chẳng sợ nữa; ngay dù bây giờ chúng đem tôi đi bắn thật, tôi cũng vậy thôi. Dứt khoát, tôi không đến nỗi ngắc ngư con tàu đi vừa qua. Tuy thế, tôi vẫn vờ hoang mang lo sợ, xin chúng tha cho. Xin chúng là người trực tiếp với tôi, hiểu tôi đã thành khẩn khai báo mọi vấn đề ngay từ đầu.
Hôm nay, không biết chúng còn giở trò gì nữa đây" Vào tới phòng cung, tôi thấy mặt 3 tên: Nhuận, Đức và Đặng rất lạnh lùng. Trên bàn, trước mặt chúng, một chiếc cặp da đen dầy cộm. Thái độ của chúng hôm nay hơi khác thường. Chúng nhìn tôi rất lâu như muốn xét đoán một cái gì. Cuối cùng, tên Nhuận trang nghiêm:
- Từ ngày anh bị bắt vào đây đã bao lâu rồi"
Tôi nhìn y dè dặt:
- Thưa ông, hơn 10 tháng rồi.
- Anh có biết rằng, trong Nam chúng đã phái ra đây mấy tên để tìm anh không"
Tôi hơi ngỡ ngàng, xen lẫn chút lắng lo trong lòng. Dù thế, ngoài mặt, tôi vẫn xem như họ nói đùa:
- Chúng nó tìm tôi làm gì! Tôi quả quyết là không có ai ra tìm tôi cả. Ở trong Nam, tôi là loại vô danh tiểu tốt. Chẳng qua chúng trả mấy tháng lương, rồi tung ra ngoài Bắc để lấy tiếng vang là chính; còn bị bắt, sống hay chết, chúng đâu còn cần biết đến nữa.
Tên Đặng từ nãy vẫn cứ ngồi yên nhìn và nghe tôi nói, bây giờ đập bàn cái “thình!”, chỉ tay vào mặt tôi:
- Ngậm ngay cái mồm anh lại! Hôm nay tôi báo cho anh biết, và không cần giấu giếm gì cả. Người của chúng tôi từ trong Nam ra, đã báo cáo đầy đủ về anh. Chúng tôi đã thấy bộ mặt thật của anh. Anh là một tên ngoan cố đến cùng, muốn đem trứng chọi với đá, dám đội đá vá trời, dám đánh lừa cả Bộ Công An cách mạng!
Trong khi vừa xỉ vả tôi, y vừa mở cặp lấy ra một cái phong bì dầy cộm. Y chọn, rút ra một tấm ảnh cỡ 6x9, cố ý cho tôi thấy là còn rất nhiều ảnh nữa. Y vất tấm ảnh xuống bàn, trước mặt tôi, gằn giọng:
- Đây, hãy mở mắt ra nhìn. Khôn hồn khai báo lại ngay. Nếu không, lần này chúng tôi sẽ không nương tay với anh nữa, sẽ có biện pháp mạnh!
Tôi thoáng nhìn bức ảnh, dù chưa cầm, tôi đã thấy tim mình như thắt lại. Tấm ảnh Phan và tôi chụp ở góc đường Nguyễn Huệ, trông chéo sang rạp xi nê Rex. Phan cao lớn, mặc áo sơ mi ca rô bỏ ngoài quần, đeo kính đen đang quay chéo mặt về phía người chụp ảnh. Tôi, áo sơ mi trắng, bỏ trong quần, đeo kính trắng. Một tay đang cầm mấy cuốn sách, một tay đang chỉ về phía trước mặt. Mặt tôi nghiêng góc với mày ảnh khoảng 30 độ.
Tôi điếng hồn, suy nghĩ, phản xạ tổng hợp cấp thời. Chúng đã biết hết rồi chăng" Chúng còn nhiều ảnh nữa hay không" Tại sao chúng lại chụp ảnh ở ngoài đường" Có thể chỉ là một tấm duy nhất, bởi vì Phan đã bị lộ, chúng đã biết lâu rồi. Khi thấy tôi đi với Phan, lạ, chúng chụp một tấm, để sau này phòng hờ dùng trong tình huống áp lực về chứng cớ. Tại sao chúng phải cố ý cho tôi thấy, chúng còn nhiều ảnh nữa" Chính cái “cố ý” này cho thấy, đó chỉ là một động tác giả của chúng để gây áp lực tâm lý. Một điều tôi tin chắc, dù cho nằm ngay trong Cục Tình Báo Sài Gòn, nhưng nếu không cùng một công tác, chúng cũng không thể biết được sự việc. Và dù cho cùng một công tác đi nữa, cũng chỉ biết được từng khâu, từng phần, chứ không thể biết toàn bộ. Mấy phút tính toán, phản ứng nhậy lẹ, thành quyết định. Đầu tiên để thăm dò, tôi làm ra vẻ mạnh bạo, nét mặt tươi lên tin tưởng:
- Tôi càng tin tưởng cách mạng hơn. Đây là tên Hòa mà. Như thế này, sự việc của tôi càng được xác minh sớm hơn.
Tên Đức đứng bật dậy, xô lại sát tôi, chỉ tay vào mặt tôi, gầm lên:
- Anh đừng có già họng! Đấy là tên Hòa à"
Tôi mở to mắt ngạc nhiên, cầm tấm ảnh, chỉ khẳng quyết:
- Thưa ông, tôi bảo đảm với các ông, đây là tên Hòa mà! Hàng ngày, y đi với tôi, huấn luyện tôi, tôi còn lạ gì mặt y nữa!
Đây là một điểm tình cờ, mà lại may. Trước đây, khi tôi tả về ông Hòa, tôi thường lấy hình ảnh người cậu họ tôi, béo trắng, to lớn. Ông là chủ hãng xuất nhập cảng hàng vải Vĩnh An ở đường Hồng Thập Tự. Ông Phan cũng to lớn, chỉ có điểm khác là tôi tả cậu tôi da trắng, đỏ hồng, hay mặc áo sơ mi trắng, trong khi ông Phan da bánh mật, hay mặc áo sơ mi ca rô. Nhưng, trông ảnh làm sao phân biệt được da bánh mật hay da trắng! Còn áo sơ mi trắng, có điều khoản nào bắt buộc ông Hòa cứ phải mặc áo sơ mi trắng mãi đâu. Còn tôi, tôi chỉ biết cái tên “Hòa”, tên “Phan” tôi không biết. Điều gì chứng minh bắt buộc tôi phải biết tên “Phan” khi mà trong tình báo, với mọi người đều dùng tên giả. Vì thế, tôi cứ khăng khăng hình người trong ảnh là tên Hòa. Điều tôi vẫn nơm nớp lo sợ là, nếu chúng đưa một tấm hình nào đó chụp tôi với Cẩn, hoặc với Hoàng Công An, lúc đó tôi chưa biết tính sao. Bởi vì từ trước, tôi chỉ khai tên Hòa duy nhất là người huấn luyện và đào tạo tôi mà thôi. An và Cẩn, người chỉ cao 1m 62 là cùng.
Chúng tỏ vẻ tức tối lắm, nhưng xem ý chúng không làm gì hơn được. Qua thái độ tức bực của chúng, tôi càng yên tâm hơn. Nếu chúng có vài tấm ảnh nào khác, chắn chắn chúng sẽ lấy ra ném vào mặt tôi. Tôi cầm tấm ảnh đưa trả lại chúng, mặt tôi đầy vẻ hân hoan tin tưởng:
- Như thế này, tôi đoán cách mạng đã bắt được tên Hòa rồi, và cách mạng đã xác minh được sự việc của tôi. Tôi rất mong, một buổi nào đó, tôi sẽ gặp tên Hòa ở đây để thỏa phần nào lòng căm phẫn của tôi đối với y.
Tên Đặng cười nhạt! Tên Nhuận cầm tấm ảnh, giọng giễu cợt:
- Bình đeo kính trắng, đẹp trai, trông tư cách đấy chứ!
Tôi cười:
- Các ông còn lạ gì xã hội miền Nam! Một anh dốt đặc cán mai, nhưng ra ngoài, cứ ra vẻ ta đây là sinh viên, trí thức, tay luôn luôn ôm chồng sách ngoại ngữ dầy cộm. Hiển nhiên, tôi cũng lây cái nét giả tạo ấy. Mắt tôi có sao đâu, thế mà cũng đeo kính trắng gọng vàng, loại không độ. Bây giờ nghĩ lại, tôi còn thấy ngượng.
Hôm nay, chúng tưởng với tấm ảnh ấy, chúng sẽ làm tôi tan hoang, hoặc ít nữa cũng phải bục ra một số mảng. Nhưng cuối cùng, vẫn không giải quyết được gì, chúng bầm gan, tím ruột!
Tên Đặng cộc lốc:
- Đi về!
Tôi về xà lim, thật hú vía! Tuy thế, lòng tôi vẫn đầy lo lắng. Tôi hiểu sự việc chưa thể yên được.
Từ ngày tôi bị phát hiện, rồi bị theo dõi ở nhà thờ “X’ tôi đã nhiều đêm ngày suy nghĩ vì sao tôi bị phản gián phát hiện. Tôi tập trung tư tưởng: nhìn, xét, rọi, soi lại từng điểm. Từng khía cạnh, từng sự việc, từ điểm đổ bộ ở Kỳ Phương cho đến khi tới Hà Nội, những ngày vào Việt Đức, lúc sang Gia Lâm… Tôi không thấy một điểm nào nghi ngờ để bị địch phát hiện. Như vậy, tôi bị địch phát hiện, chỉ có thể:
1) Từ nơi linh mục A. Linh mục đang bị Cộng Sản bí mật theo dõi. Tôi mò đến, nên chúng tìm về nhà trọ để xác minh. Mà đã xác minh, chân tướng tôi lò ra ngay.
2) Từ Paul Lạng ở Paris. Có thể y là nhân viên “hai mang”. Để lấy tiền, y đã cung cấp cho phản gián Hà Nội biết rằng sẽ có một người xâm nhập Hà Nội, nhưng không biết đích xác ngày tháng cũng như nhiệm vụ. Nếu đúng như vậy, phản gián Hà Nội phải tìm ra là tất nhiên. Nhưng điểm này yếu khả năng hơn điểm trên.
Tôi mất bao ngày đêm nặn óc suy nghĩ, nhưng vì thiếu cơ sở để nhìn, để xét, cho nên tôi vẫn chưa thể khẳng quyết là do điểm một, hay điểm hai. Bây giờ, lại có thêm tấm ảnh của Phan và tôi. Với tấm ảnh trong điều kiện như hôm nay, tôi chưa thể có ý kiến gì, phải đợi những ngày kế tiếp mới sáng tỏ.
Tên Tân bị cùm đến ngày thứ tư, thì mụ Hoa vào gọi đi cung. Qua gần 2 tháng trò chuyện với tên Tân, tôi được biết y chỉ có một chấp pháp duy nhất tên là Châu. Cũng thuộc phòng 44, phòng hỏi cung chính trị. Vậy mà tôi, sao nhiều chấp pháp thế! Trước sau đã 6 người rồi. Mỗi buổi hỏi cung lại thường có từ hai, tới ba người. Có lẽ tại tôi là một điệp viên, có nghiệp vụ, được đào tạo huấn luyện bởi những cơ quan tình báo của một quốc gia, cho nên, để khai thác chúng phải mất nhiều tâm sức hơn"
Tên Tân đi cung gần hai tiếng đồng hồ đã về ngay. Tân đã vào buồng mà tên Tư vẫn chưa đóng cửa. Vẫn đứng ở ngoài, trong khi tên Tân vội vàng quấn chăn màn và quần áo. Tân quay lại tôi nói nhanh:
- Tôi được ra trại chung, vụ án của tôi sắp xử.
Y ôm các thứ ra tới cửa, quay lại gật đầu chào tôi. Cửa đóng, rồi khóa. Tôi thấy nhẹ hẳn người. Từ nay một mình, dù buồn hơn, nhưng không làm phiền toái ai, tôi cảm thấy dễ chịu, tự do hơn.
Ngày hôm sau nữa, tôi lại nghe cán bộ vào bảo cô gái bị cùm, phía trái của buồng số 7 mang chăn màn, quần áo ra trại chung. Cô đó đi được hơn một tiếng, rồi cô bị cùm phía phải cũng đi, rất im lặng. Tôi cố gắng nghe để phán đoán, nhưng cũng không hề nghe thấy một âm thanh gì. Như thế, sự nghi ngờ của tôi cô “phía phải” là tù giả cùng chắc đúng hơn nữa… Mặc dù mỗi người một buồng, họ ra đi, lòng mình cũng thấy mang mang vắng lặng.
Buồng số hai cũng một người ra trại chung, cùng với hôm Tân đi, có lẽ là người anh họ cùng “vụ” với Tân. Như thế, hiện nay xà lim chỉ còn có 4 người: Một ở buồng số một, bị cùm một chân, một ở buồng số 2, không bị cùm; một ở buồng số 4 là tôi và một ở buồng số 5, không bị cùm.
"Đòn Thù” Của Chấp Pháp và Những Cay Đắng Của Đời Tù


9 tháng 4, ngày mà tôi nhớ mãi, sau hôm tôi đi cung được 5 ngày. Sáng hôm đó, tên Tư mở cửa buồng cho rửa và đổ bô xong. Tôi đang ngồi mài móng tay xuống sàn xi măng chờ cơm sáng, bỗng cửa con xoạch mở. Theo cách mở cửa con và khóa cửa lớn, tôi đã biết ngay là người lạ. Tôi nhìn lên, cửa con đóng lại và cửa lớn mở to. Đứng ngay giữa cửa là tên Lê, Trung úy Phó Giám Thị, phía sau có tên cán bộ Tư. Nhìn tôi, tên Lê nghiêm trang, nói giọng Bắc:
- Theo lệnh trên, anh bị cùm hai chân. Vậy hãy nghiêm chỉnh chấp hành!
Tôi choáng váng đến lặng người đi. Tôi bị cùm hai chân! Như thế này, chỉ có tê rồi chết thôi. Tôi đờ đẫn người hỏi, trong khi tên Tư bên ngoài đã rút chốt cùm ra chờ đợi:
- Thưa ông, tại vì sao tôi bị cùm hai chân ạ"
Tên Lê gằn giọng:
- Đó là lệnh trên, anh hãy cứ chấp hành!
Một màu u xám như xụp xuống chung quanh tôi. Tôi hiểu, gian khổ cùng khốn lại đoạ đầy tấm thân khốn nạn của tôi. Còn biết nói năng chi, tôi nhấc cùm và từ từ nhấc chiếc chân còn lại ở ngoài đặt vào cùm, tâm tư tôi như đi vào nhà mồ.
Đóng chốt cùm xong, tên Lê ra tới cửa còn quay lại:
- Hãy suy nghĩ kỹ đi, kẻo rồi không sống được!
Tiếng cánh cửa buồng đóng mạnh. Tiếng lạch cạch của then sắt cài cửa như cào vào trái tim đang rỉ máu của tôi. Lần này rõ ràng rồi! Tụi chấp pháp cùm tôi, vì cho tôi ngoan cố, không chịu khai báo sự thật.
Lần trước, chấp pháp còn lấp lửng “chúng tôi không cùm anh”, vì lúc đó chùng còn nấp sau cái mặt nạ “dân chủ”, lấy “chính nghĩa” phục vụ nhân dân, lấy “khoan hồng” giáo dục con người sai phạm là chính. Bây giờ, chúng hất cái mặt đó ra rồi, hiện nguyên hình là những con quỷ, đầy mồm nanh vuốt với hai bàn tay máu.
Cùm hai chân, khổ cực nhất là cảnh đái và ỉa. Đi đại tiện, tôi phải cố tập hai ngày đi một lần. Nhưng đi đái, dù uống ít nước, ban ngày phải 3, 4 tiếng đi một lần; còn ban đêm, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng tôi mới dậy đi. Đó là với điều kiện ngủ, chứ vì đau đớn không ngủ được, một đêm cũng phải đi 2, 3 lần. Lúc đi đái, dù cố gắng bằng cách nào, tôi cũng vung vãi cả ra nhà và trên sàn ngủ. Bởi vì, tôi chỉ có một thế duy nhất: nằm nghiêng ở giữa sàn, rồi từ giữa sàn tiểu xuống dưới bô, có khi vào bô, có khi không.
Gặp khó khăn phải đẻ ra sáng kiến. Đó là phương châm đối với tất cả mọi sinh vật. Sau hai đêm, chân tôi tê và mỏi nhừ. Nhưng, bứt rứt và khó chịu nhất là hai cái đầu gối không thể gập hẳn lại được. Đa số thời gian tôi phải nằm nhiều. Còn ngồi, thì ở cái thế gù gù, đầu phải gục về phía trước, rất mỏi, không thể ngồi lâu được. Vì vậy, tôi nghĩ nếu lúc cùm vắt chéo hai chân, chân phải sẽ ở bên trái và ngược lại, chân trái sẽ ở bên phải. Như thế, muốn nằm, phải nằm xấp, và chỉ nghiêng về một phía. Nhưng, được cái lợi là quỳ lên rồi ngồi gập lên cái cùm, lúc đó, chân gập sát được, thoải mái hơn.
Nghĩ như vậy, buổi sáng hôm sau, ăn cơm rồi trả bát xong, tôi vắt chéo hai chân. Lão Tư nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Lão định hỏi, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, rồi lão đóng cửa cài then. Tôi lựa thế xoay úp người xuống sàn, chống tay quỳ lên, rồi ngồi lên cái cùm, hai chân gập lại phía dưới mông đít. Thế ngồi thật vững chãi, nhất là hai chân được gập được sát lại mông. Ngồi một lúc mỏi, tôi lại chống tay xuống sàn, từ từ nhoài người ra phía trước, nằm xấp. Như thế, hai chân duỗi ra được thẳng hơn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn hẳn thế cùm cũ. Tuy vậy, cũng có điều bất tiện của nó là không đi đại tiện được, vì không thể nào để đưa mông ra được sát mép sàn. Còn đi tiểu tiện, chỉ có một thế duy nhất là quỳ lên, rồi từ giữa sàn cho chéo xuống dưới bô. Thế này có lợi là tôi nhìn thấy miệng bô, nên ít văng ra ngoài, nhưng nước giải rớt ra sàn ngủ nhiều hơn. Tóm lại, kiểu cùm này chỉ có thể dùng ban ngày, từ bữa cơm sáng lúc 9 giờ cho đến bữa cơm chiều lúc 4 giờ. Về đêm, nên đổi lại thế cùm bình thường. Tuy thuận tiện hơn nhau không bao nhiêu, nhưng điểm lợi là chân luôn cử động được, mạch máu lưu thông, giảm bị tê bại chân.
Tôi đang ngồi chễm chệ trên cùm, mắt mơ màng nhìn lên một khoảng trời con, rộng chừng 10 phân giữa mép dưới cửa sổ và riềm mái ngói chạy dài theo cửa sổ. Trong cái khung trời này có 6, 7 cái lá nho của giàn nho phía sân trước Hỏa Lò, nơi mỗi khi tôi đi cung đều có đi qua. Bỗng dưng cửa con xoạch mở. Tôi quay lại, chỉ kịp thoáng thấy bộ mặt của lão Tư. À ra thế! Khi nãy, thấy tôi vắt chéo hai chân cùm, y không biết tôi định làm gì, vì vậy y mới để ý theo dõi. Bây giờ, y bất chợt mở cửa kiểm tra. Thấy tôi ngồi như vậy, y đã hiểu, nhưng chẳng có gì nói được tôi, nên y lại đóng cửa con lại. Tuy chỉ là một khung trời nho nhỏ với mấy chiếc lá nho xanh rờn, nhưng nó cũng làm cho tâm hồn tôi được thêm một chút thi vị, còn hơn là chỉ nhìn thấy 4 bức tường và hai cái cùm, không một chút sinh khí. Nhiều lúc bâng khuâng, nhìn những chiếc lá nho xen kẽ những mảnh trời xanh xanh, hồn tôi buông trôi dật dờ, như ký thác, gửi gấm những nỗi niềm đầy vơi của mình mà quên đi được phần nào cái nhức mỏi của đôi bàn chân trong cùm.
Mấy hôm nay, người lại đưa vào đầy xà lim. Buồng nào cũng có người. Lúc gần trưa thấy tiếng mở cửa xà lim, tôi nghe giọng một người Tầu, nói tiếng Việt không rõ:
- Téo mẹ, tui làm sao mà pắt tui"
Và ngay sau đó, tiếng quát:
- Câm mồm!
Tiếng mở buồng số 6, tiếng rút chốt cùm. Tiếng lão Tư cao giọng:
- Bỏ chân vào!
- Tui làm sao lại cùm cái chân tui!
Tiếng xô động huỳnh huỵch, tiếng đóng chốt cùm, tiếng đóng cửa cài then. Rồi im lặng, tôi vểnh tai nghe ngóng. Vẫn im lặng, có lẽ các buồng khác cũng đang vểnh tai nghe những âm thanh để suy đoán như tôi. Im lặng một lúc, tôi lại dõi hồn vào những chiếc lá nho. Vài cơn gió nhẹ, những chiếc lá nho rung rinh, đong đưa như đùa cợt với gió. Bỗng một giọng khàn khàn cất lên nghe rõ mồn một:
- Chúng mày không cho làm ăn puôn pán gì cả!... Vợ con tau ăn cái sắn mà không có ăn… Mua cái tậu, mua cái muối, xếp hàng dài dài mà không mua tược! Chúng mày giết vợ con tau đi, giết tau đi!... Téo mẹ cái Cộng Sản! Téo mẹ cái cách mạng!.....
Càng lúc giọng càng ầm vang, nhiều khi như gầm lên. Qua giọng nói, tôi đoán ông này cũng đã có tuổi, phải từ 35 đến 40. Có tiếng cửa con xoạch mở, rồi tiếng lão Tư sắc, đanh:
- Câm cái mồm lại, mày muốn chết hả"
Tiếng người Tầu gầm lên như điên rồ:
- Mày giết tau đi! Téo mẹ chúng mày! Tau không muốn cái sống nữa! Chúng mày làm cái dân không có cơm ăn! Téo mẹ cái tồng chí, téo mẹ cái Cộng Sản!
Tiếng lão Tầu gầm thật to, vang ra cả ngoài sân khu giàn nho. Mấy tên cán bộ chạy vào. Một giọng lạ như ra lệnh:
- Khóa mồm nó lại. Không chịu nữa, cho xuống “cát xô”!
Lão Tầu gần như điên khùng, không biết sợ là gì, lão vẫn chửi. Một lúc sau, có tiếng mở cửa buồng. Rồi những tiếng huỳnh huỵch vùng vẫy và giọng của lão Tầu cứ xìn xịt, phì phì như tiếng của người bị bịt miệng. Tiếng cửa đóng nghe “xầm”, rồi xà lim lại trở về vắng lặng. Thỉnh thoảng tiếng xìn xịt hổn hển của buồng 6 cứ như cào vào tim của mọi người trong xà lim. Tôi nhớ lại hình ảnh chiếc cùm mồm lúc tôi mới bị bắt vào. Khi đó, tôi còn bị đánh máu me đầy người, lại còn bị cùm hai chân. Nghĩ đến, tôi còn thấy tim mình như bóp thắt, gáy tôi còn rờn rợn. Ở đây, ông Tầu chỉ bị cùm một chân, nhưng chắc cũng không gãi được, vì nếu đã bị cùm mồm thì phải khóa tay ra sau, nếu không, tay sẽ mở được cái vít dưới cằm. Tôi thở dài, thông cảm cho ông.
Tôi nhớ lại lúc bị cùm hai chân dạo ấy. Khi đó, phần vì mới vào cơ thể của tôi còn có chất dự trữ, còn sức lực để chịu đựng, hơn nữa, đang ở thời gian liên tục đi cung, nên coi như chỉ bị cùm về đêm. Ban ngày hai chân được nghỉ ngơi, thay đổi, máu chạy điều hòa, ít bị tê xuội. Vậy mà tôi cũng chỉ chịu đựng được gần 40 ngày rồi không đi được nữa. Bây giờ, chúng lại không gọi cung nữa. Tôi đã nổ lực phấn đấu bằng cách luôn luôn thay đổi thế cùm, vất vả đau đớn lựa thế duỗi ra co vào như tập thể dục, thế mà bàn chân khi sờ vào cứ bì bì, căn cắn. Tay sờ vào chân, cảm giác như sờ vào chân người khác.
Ngày 16 tháng 4, tên Tư mở buồng, thu hết chăn màn và áo trấn thủ. Khi y tới buồng tôi, tôi nằn nì, khẩn khoản:
- Thưa ông, tôi chẳng có một cái gì ngoài hai bộ quần áo cũ. Đề nghị ông thông cảm, cho tôi mượn lại một chiếc chăn, tôi xin đội ơn ông và nhà nước.
Y quắc mắt, gằn giọng:
- Nguyên tắc là nguyên tắc. Không nói nhiều!
Tôi đành cởi áo và gấp hai chiếc chăn đưa cho y với bao nhiêu luyến tiếc hận sầu. Y ném xuống đất, phía ngoài cửa. Y như kinh tởm khi cầm tới chiếc chăn, mũi y nhăn lại. Cửa đóng rồi, mà lòng tôi còn ngẩn ngơ tiếc nuối. Tôi hiểu rằng những ngày tới, trong tình trạng cùm kẹp này, tôi còn phải chịu đựng nhiều khổ sở khó khăn hơn nữa. Có tiếng người lục đục vào ôm những chiếc chăn phía ngoài cửa. Chắc là một anh tù hình sự nào đó đi thu chăn về để giặt và nhập kho. Như vậy là hàng năm, cứ 16 tháng 10 thì cho mượn chăn, và 16 tháng 4 thì thu lại.
Chiếc loa ở cổng trại chung đã như cái đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, sáng đúng 5 giờ tiếng loa bắt đầu với những bài tập thể dục ở trên đài. Giọng một cô gái thanh thanh kéo dài 1, 2… theo từng động tác, nghe có lúc như tiếng hò kéo gỗ ở một công trường lao động đổ mồ hôi, có lúc lại dồn dập khẩn trương như tiếng đập lúa trong ngày mùa của một hợp tác xã nông nghiệp. Sau 15 phút tập thể dục, tới mục “thanh niên”, rồi đến công trường, nhà máy, bản tin. Từ 6 giờ tới 6 giờ 30 là mục “Quân Đội Nhân Dân” .v.v… Tiếng loa cứ the thé chọc vào tai mọi người cho tới 8 giờ thì câm bặt. Đến 12 giờ trưa lại nheo nhéo. 1 giờ lại tắc họng, để đến 5 giờ chiều lại bắt đầu hò hét cho tới 9 giờ tối mới chịu ngủm củ kiệu.
Trong một tuần, sáng thứ Hai và thứ Sáu là hai ngày “giao và đưa hàng”, đó là những từ, tôi nghe tụi cán bộ thường xuyên nói chuyện với nhau. Ngay từ 3, 4 giờ sáng, lúc chưa có tiếng loa phát thanh, ở chỗ sân giàn nho sát với cổng trại chung, tiếng rì rầm, ồn ào hỗn độn của ù, xen lẫn với những tiếng quát tháo của những tên cán bộ, bộ đội về cơm nước, cùm, khóa… để đưa tù đi trại trung ương. Tôi nằm nghe theo dõi những tiếng rì rầm bàn tán. Có ngày là tù chính trị, có ngày là tù hình sự. Như vậy, ở trại chung, hoặc ở xà lim, anh nào sẽ phải đi trại nào, ngay từ tối hôm trước đã được gọi ra tập trung ngủ ở một ngôi nhà gọi là “buồng vãng lai”. Sáng sớm 3 giờ đã được gọi dậy ra chỗ giàn nho phía bên ngoài tường của xà lim II, để nhận cơm nắm, rồi đọc tên, khóa tay chung, cứ hai người một. Tù thường không biết mình sẽ đi trại nào. Nhưng tôi nằm trong này tôi đã biết trước họ. Ngoài cổng trại chung, sát phía bên kia cũng là địa điểm để xe đạp, những giờ tan tầm, cán bộ thường tập trung lại đó, đôi khi bàn tán, đùa cợt, hỏi han nhau., vì thế từ chiều hôm trước, có khi tôi đã biết tù ngày mai đi trại nào rồi như: Vĩnh Quang, Phú Sơn, Vĩnh Tiến, Tân Lập, Phố Lu, Phong Quang, Trại 5, Quyết Tiến hay “Cổng Trời”, v.v… Cũng từ địa điểm này, đôi khi nghe được nhiều chuyện giữa cán bộ bàn luận, hỏi nhau trước khi về, hiểu thêm được về chúng và về xã hội miền Bắc.
Ngay bữa cơm chiều hôm đó, tên cán bộ hỏi buồng số 6:
- Cái mồm còn la nữa hay không"
Im lặng một lúc, rồi tiếng mở cửa buồng: "Từ nay, tôi chỉ nghe anh la một tiếng, tôi sẽ cùm cả hai chân, khóa mồm cho vài ngày. Lúc đó, chỉ có chết." (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
tác giả Đinh Xuân Quân sinh trong một gia tộc Miền Bắc theo Công Giáo từ vài thế kỷ, qua các thời kỳ Quốc-Cộng đảng tranh, Hoàng Đế Bảo Đại, TT Ngô Đình Diệm, Đệ Nhị Cộng Hòa, du học, về VN làm việc, vào tù cải tạo sau 1975, vượt biên, làm một số dự án LHQ giúp các nước nghèo (kể cả tại VN)
Một chiếc máy bay rớt tại South Dakota hôm Thứ Bảy làm thiệt mạng ít nhất 9 người, gồm phi công và 2 trẻ em.
Cảnh sát lập hồ sơ khởi tố Nguyen về tội bạo lực gia đình, say, và 2 tội gây nguy hiểm cho trẻ em. Nguyen được tạm rời nhà tù quận Polk County Jail vào sáng Thứ Sáu 29/11/2019.
Mười người đã bị bắn tại Khu Phố Pháp ở thành phố New Orleans vào sáng Chủ Nhật, 1 tháng 12, theo cảnh sát cho biết.
Diễn cẩn thận từng bước, hết sức chậm rãi đi xuống đồi do bờ triền dốc đứng. Hân đi sau tay phải ôm chặt tay trái Diễn và nửa thân xô nghiêng ép vào người anh.
Như chúng ta biết, đảng SPD (Đảng Dân chủ Xã hội Đức) đã tìm kiếm lãnh đạo mới từ sáu tháng nay. Vào mùa hè 2019, nhà lãnh đạo đảng trước đó Nahles đã từ chức sau các cuộc tranh giành quyền lực nội bộ. Có nhiều ứng cử viên nhưng sau cuộc bầu cử sơ bộ chỉ còn hai cặp vào chung kết.
Hàng triệu người nghèo có thể bị mất phiếu thực phẩm (food stamps) quan trọng theo những thay đổi luật lệ được đề nghị bởi chính phủ Trump.
Con sông Hoàng Hạ chảy xuyên qua trấn Hoàng Hoa quanh năm xanh biếc, nước từ miền tuyết lãnh tan ra nên tinh khiết vô cùng.
Lý do để viết bài này là vì bản thân người viết có sai lầm cần bày tỏ. Tuy rằng sai lầm đã hiệu đính, nhưng cũng cần nói ra, vì Đức Phật đã dạy rằng hễ sai thì nên tự mình bày tỏ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.