Hôm nay,  

Đọc Sách Mới: Bản Dịch Việt Ngữ Từ Nguyên Tác “the Chau Trial”

02/05/200900:00:00(Xem: 27821)

Đọc Sách Mới: Bản dịch Việt ngữ từ nguyên tác "The Chau Trial" của tác giả Elizabeth Pond / Hậu quả III:
vụ án Khởi đầu sự cáo chung của CHẾ ĐỘ 
Tác giả
Elizabeth Pond

Là một tác giả và diễn giả danh tiếng chuyên về các vấn đề quốc tế, tên tuổi Elizabeth Pond (hình bên) được nể trọng ở Âu Châu và Hoa Kỳ, trong cả hai lãnh vực báo chí và hàn lâm. Ngoài công việc giảng dạy tại các đại học Đức và Mỹø, bà còn là thành viên nhiều hội đồng tham vấùn và viện nghiên cứu chiến lược quốc tế  và là tác giả của 11 cuốn sách có nội dung đã đụng tới các vấn đề nóng bỏng nhất tại nhiều khu vực của thế giới như bức tường Bá Linh, Chính sách Mỹ đối với nước Đức; Biến động vùng Balcans;  Nhận thức về nước Nga;  Sự tái sinh của Âu châu... 
   Sự nghiệp của Elizabeth Pond bắt đầu bằng "The Chau Trial". Đúng 40 năm trước đây, sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, cô dành nửa năm để ở lại Saigon theo dõi tại chỗ. Và "The Chau Trial" trở thành tác phẩm đầu tay của Elizabeth Pond, với kết luận "Đây là bước khởi đầu sự sụp đổ của ông Thiệu."     
 Cho tới nay, 40 năm sau "Vụ án Trần Ngọc Châu",  tác giả và nhân vật chính trong vụ án - Pond và Châu- vẫn chưa hề gặp nhau.
  Sau đây là bản dịch Việt ngữ "Vụ Án Trần Ngọc Châu" do THANH NGUYỄN và HOÀNG NGỌC TRÁC chuyển ngữ từ nguyên tác "The Chau Trial".
***
Elizabeth Pond nhận xét về Hậu quả vụ án

Muốn mường tượng ra hình dạng thay đổi như thế nào thì cần bắt đầu với một số giả định về khuôn khổ suy luận. Những giả thuyết của tôi là:
1. Tình hình đàm phán có xoay chuyển thế nào đi nữa, Mỹ tiếp tục rút quân, chắc chắn tới cấp độ của những lực lượng canh gác, có khi thấp hơn. Và tốc độ triệt thoái trước mắt sẽ tùy vào những chỉ dẫn của Nixon về giảm quân để chủ yếu giữ vai trò yểm trợ tác chiến vào mùa Xuân tới.
2. Ít nhất qua năm tới, Hoa Kỳ tiếp tục ngăn chặn mọi cuộc đảo chính tại Sàigon - với hiệu quả.
3. Việc Mỹ tiến quân qua Cămbốt là ngoại lệ hơn là chiều hướng của tương lai và Hoa Kỳ sẽ không đảo ngược quyết định xuống thang chiến tranh, trừ phi Cộng sản mở những cuộc tấn công lớn.
Về phía Bắc Việt và Mặt trận:
1. Bắc Việt chưa bị kiệt quệ tới cùng, lại còn được Trung Quốc cung cấp mọi yêu cầu về võ khí nhỏ nên vẫn có thể tiếp viện chiến trường miền Nam theo sát với mức độ tác chiến mong muốn.
2. Vốn đã thành công tại nhiều nơi, đặc biệt trong vùng châu thổ đông dân ở miền Nam, việc Chính phủ phá vỡ lực lượng võ trang bảo vệ cán bộ Cộng sản sẽ giảm dần nhưng vẫn không ngăn được Mặt trận xây dựng lại cơ sở với các bộ đội Cộng sản mới tăng cường.
Về phía miền Nam:
1. Ông Thiệu tiếp tục nghi ngờ các đồng minh đến tối đa và vì vậy sẽ còn duy trì việc khống chế đối lập hơn là vận động sự ủng hộ hay tìm thế phòng thủ qua sự dung hoà với các nhóm xã hội chính trị (không cộng sản.)
2. Thành phần quốc gia chống Thiệu và không cộng sản sẽ còn ngại ngần đoàn kết và sự phân hoá tiêu biểu của miền Nam còn tiếp tục.
Về đánh và đàm:
1. Không đạt thoả thuận rồi tôn trọng ngưng bắn cho tới khi có lắng dịu kiểm chứng được tại một số chiến trường (có thể ở Cămbốt hay cả tại Việt Nam). Và điều kiện này khó xảy ra cho tới khi Mỹ coi như đã hoàn tất việc triệt thoái và tới khi các lực lượng Cộng sản đã giành lại cân bằng và phục hồi những gì họ đã mất trong trận đánh năm 1968 và trong đợt bình định 1968/1969.
2. Những xung đột sẽ tiếp tục trong khoảng một năm nửa với cường độ tương đối thấp như trong hiện tại - và với giao tranh ngoài biên giới hay các đợt tấn công trong khu đông dân. Trong hoàn cảnh đó, quân Bắc Việt và Mặt trận sẽ không dại dột trì hoãn việc Mỹ rút quân bằng những trận đánh lớn, nhưng sẽ tăng cường lực lượng cho các đợt tấn công ráo riết vào cuối giai đoạn triệt thoái của Mỹ.
3. Washington và Sàigòn sẽ không thương thuyết một giải pháp liên minh không phản ảnh lợi thế Mỹ-Việt đang có ngoài chiến trường (đo lường ở khả năng kiểm soát tình hình tại các khu đông dân).
4. Trong khi Bắc Việt và Mặt trận - dù quyết liệt phản đối - có thể đồng ý với thế liên minh của chính quyền trung ương gồm có Thiệu, Kỳ hay Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, chắc chắn là họ không bao giờ chấp nhận quyền đại diện của các dân biểu địa phương hoặc của từng khối dân cử trong Quốc hội hiện hành. Và vì vậy, việc đàm phán sẽ gặp bế tắc chính trị trong ít nhất một năm nữa.
Những giả thuyết ấy đúng hay sai về thời điểm thì vẫn là điều mơ hồ. Cho nên hình như người ta có được một năm, đôi khi là hai năm, xoay trở trước khi sức ép quân sự và - hay là - chính trị sẽ lại gia tăng. Sau đó ra sao thì không thể đoán được. Về phía Hoa Kỳ thì điều ấy hàm ý là ông Thiệu có thể ổn định đủ tình hình cho Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến, tương tự như ông Kỳ đã tạm ổn định tình hình cho Mỹ nhảy vào cuộc.
Ảnh hưởng về phía Việt Nam thì khó biết hơn. Trong hoành cảnh giả định ấy, thời điểm thay đổi chính trị có vẻ thuận lợi nhất là vào mùa hè tới, khi mọi người chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống vào mùa thu.
Một vụ đảo chánh sớm như vậy là hơi khó. Ông Thiệu vẫn có vẻ kiểm soát đủ tình hình - và Mỹ vẫn còn đủ ảnh hưởng - để chặn được mọi cuộc đảo chánh. Đã thế, trong hiện trạng, những tay muốn thử thời vận lại cũng chẳng nhiều. Không có ai chịu làm đảo chánh, một chính khác than vãn như vậy; nếu có người thì đỡ hơn nhiều. Ông ta nói tiếp, khi ấy mình sẽ có trật tự thay vì sự hỗn loạn sau Thiệu.
Trong ngắn hạn thì đây không phải là mùa đảo chánh. Tình hình chính trị sẽ thay đổi mạnh tới độ đảo chánh sẽ dễ hơn với thời gian. Vì vậy thời điểm này chưa phải là lúc các chuẩn ứng viên đảo chánh xuất hiện. Ngoài ra, vẫn còn tràn trề hy vọng là Hoa Kỳ sẽ bất ngờ đi tìm một thỏa hiệp chính trị và sẽ chiếu cố một đối thủ nào đó của ông Thiệu, cho nên các đối thủ vẫn tự chuẩn bị cho tình huống đó.


Thành thử, thay vì là đảo chánh sẽ là những di hại của bất ổn chính trị công khai vào đầu xuân. Trong đợt tới, nhiều phần sẽ là sinh viên sách động hơn là thương phế binh. Một số nhà sư trẻ trong khối Phật giáo Ấn Quang cũng có thể giành lấy quyền lãnh đạo của các vị sư cao tuổi hơn và thổi lên những cuộc biểu tình Phật giáo, nhưng chưa có dấu hiệu gì về chuyện đó.
Sẽ là bất ngờ nếu những đợt chống đối sắp tới lại có tính chất quyết định như đợt trước. Mặt trận chưa hồi phục đủ để khai thác tình hình trong năm 1971. Nhưng chống đối sẽ gây thêm bất trắc cho tình hình chung, và đẩy bất mãn chính trị đi xa hơn.
Qua năm tới, dù có biểu tình hay chỉ là biểu tình hình thức, tôi vẫn chờ đợi một sự tan rã chung ở bên dưới vì việc Mỹ triệt thoái bắt đầu gây ảnh hưởng chính trị. Một phần, sẽ có sự đảo ngược quyền lực từ trung ương tuột xuống các tư lệnh quân khu và các tướng khác. Phần kia sẽ thêm lẽ chần chờ - thêm lối nước đôi có lợi cho Măt trận trong các thành phố, thêm sự dung hòa lần nửa lại có lợi thêm cho Mặt trận ở các địa phương. Ngần ấy chuyện đều có thể xảy ra mà chẳng thấy có gì thay đổi đáng kể về tình hình chiến sự hay về khả năng kiểm soát của chính phủ trên một số lớn các khu đông dân của miền Nam.
Từ 1972 về sau, tôi chờ đợi tình hình chính trị sẽ suy đồi với nhịp độ nhanh mà khó lường. Và tôi chờ đợi Mặt trận Giải phóng - với cơ sở cán bộ duy nhất có kỷ luật và trải rộng toàn quốc, sẽ có thể khai thác được sự suy đồi chính trị này. Con đường dẫn tới sự khống chế của Mặt trận - và Bắc Việt - ở miền Nam không nhất thiết phải qua một cuộc tấn công quân sự. Nhiều phần sẽ là do kết hợp nỗ lực xâm nhập, hăm dọa và biểu tình ngoài đường cùng với sức ép quân sự. Địa bàn thử nghiệm có thể là Quân khu I ở miền cực Bắc, vừa trống trải trước các đợt tấn công quân sự của Bắc Việt, vừa bị soi mòn vì các phong trào ly khai ở bên trong.
Rõ là làn sóng bất bình của quần chúng đã dâng đủ mạnh để bất cứ ai muốn là có thể thổi lên bão tố. Thất tán và tan tác vì chiến cuộc, nỗi lo về chiến tranh, khát khao hòa bình, tinh thần chống Mỹ, bực dọc vì tham nhũng và đặc quyền, là những yếu tố có thể tác động bất lợi cho chính phủ Sàigòn hơn là cho Mặt trận.
Có khi đòn dứt điểm sẽ là nỗi khó khăn về kinh tế. Hẳn là trong sinh hoạt thường nhật những mơ ước ngày một cao hơn của người dân bình thường vào thời đại Honda sẽ tiêu tan trước nạn lạm phát và thất nghiệp, khi việc làm cho Mỹ hết dần, trợ cấp của Mỹ cho nhập cảng cạn dần, và vật giá gia tăng khiến cảnh sát và quân cảnh sẽ đòi hỏi nhiều hơn.
Điều éo le là thành phần vô sản mới ở thành phố mà người Mỹ đã quy tụ được trong năm năm qua - trong một chiến lược nhằm đánh bật dân chúng từ thôn quê ào ạt đổ vào các khu tồn tàn ở thành phố - có khi lại gây tác dụng ngược, là biến họ thành hậu thuẫn cho Cộng sản. Một phần tư thế kỷ nay là một cuộc đấu tranh giữa các thành trì dù bất trắc của chính phủ với các hậu cứ nổi loạn hay các đường vận chuyển ngoài thôn quê. Nhưng trong hiện tại, khả năng di động tự do của phe nổi loạn đã bị thu hẹp trong vùng châu thổ đông dân nhờ nỗ lực bình định của chính phủ trong khi động loạn tại thành phố mà chính phủ không kiểm soát nổi lại gia tăng rất mạnh. Và người ta được biết rằng tổ chức của Mặt trận trong các thành phố lại vững hơn thời gian ngay sau khi ông Diệm bị lật đổ, để có thể chủ động gây ra hỗn loạn chính trị.
Những yếu tố khả dĩ cản trở hay trì hoãn sự chiến thắng của Cộng sản có thể bao gồm: thiếu một lãnh tụ có uy thế tương tự như Hồ Chí Minh; thời gian cần thiết để xây dựng lại lực lượng Cộng sản tại miền Nam; hai ba năm được sinh hoạt trong không khí tương đối an ninh của các làng quê trong vùng châu thổ nhờ sự bảo vệ của chính phủ; và kế hoạch cải cách ruộng đất. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng tổ chức Cộng sản sẽ vượt qua được những chướng ngại đó.
Đã vậy, tôi phải tin rằng những chiều hướng ấy vẫn tiếp tục cho dù ông Thiệu ở lại, hay một người như Thủ tướng Khiêm hoặc Dương Văn Minh có thể kế nhiệm ông Thiệu vào năm 1971. Ông Khiêm sẽ kế thừa những thiếu sót chính trị của ông Thiệu và tự thân cũng không có điểm gì hấp dẫn hơn để bù đắp sự thiếu sót ấy. Dù bản thân ông Minh có thể có hậu thuẫn chính trị khá hơn, nhưng suy ra từ thời ông ta có một chút hy vọng lãnh đạo sau khi lật đổ ông Diệm, dường như Minh không thể xoay lợi thế tình cảm ấy thành khả năng cầm quyền và cai trị vững bền. Giờ thì tôi cho rằng bất cứ một vụ đảo chính nào cũng chỉ giúp cho Mặt trận đạt thêm lợi thế đi lên.
Vì vậy, câu hỏi được nêu lên là Mặt trận (hay Bắc Việt, nếu như Hà Nội muốn công khai hóa ý đồ nắm quyền) sẽ làm thế nào để đạt lẽ chính danh cho việc cai trị hay cho thiên mệnh của mình, và nhờ đó xoay chuyển thế lực thành một "quyền lực" ổn định mà Nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm nói tới"
Câu hỏi cũng được đặt ra về cái lẽ cân bằng giữa chiều hướng hoà giải với phản ứng "tắm máu" trong giả thuyết Cộng sản sẽ cướp chính quyền. Nhưng, đó là những câu hỏi cho một giai đoạn mới.
Với bản tin này, tôi chỉ ghi lại những cảm nghĩ của mình, rằng đây là bước khởi đầu sự cáo chung của ông Thiệu. Tôi dè dặt hơn khi phải dự đoán thêm về tương lai. Các biến cố chính trị thường có lối trêu chọc mọi lời tiên đoán bằng trò bất ngờ, và lịch sử (hay thiên mệnh) thường chỉ được coi là tất nhiên khi mình nhìn lại về sau. Tuy nhiên, nhà báo (và cả các nhà làm chánh sách hay thường dân), vẫn phải suy xét chánh sách hôm nay căn cứ trên ý nghĩa của chúng cho tương lai. Đây là điều mà tôi cố viết ra ở đây, với nhận thức tối đa của mình.
ELIZABETH POND
(Nhận được tại New York, ngày 22-10 năm 1970.)
Kỳ tới: Điện văn mật quanh vụ án Trần Ngọc Châu

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.