Hôm nay,  

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông: Xếp Vào Kỷ Niệm

25/08/200800:00:00(Xem: 3728)
LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do. Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...

*

Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:

- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố này không được, Mẹ chỉ cho con đi Mẹ!

- Ừ, chờ Mẹ một chút.

Cầm quyển vở của con lên tay, chỉ đọc thoáng qua, Thúy không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền rẻ tiền của các cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: "Trong một trận đánh, ngày đầu quân ta anh hùng giết được 4 tên lính Ngụy. Ngày thứ hai, giết thêm được 8 tên. Ngày thứ ba, giết được 2 tên. Vậy ba ngày đánh giặc, chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy"" Thúy thừ người suy nghĩ. Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào Mẹ, hỏi khẽ:

- Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ"

Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi!

Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!

Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng:

- Ai đó"

- Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"!

- Nhưng bà là ai"

- Tui là A Múi!

- A Múi là ai, tui đâu có quen!

- Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui!

Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi:

- Cô có phải là Lê Thị Thúy không"

- Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà"

- Có phải cô có hai thằng "con chai""

Thúy nghi ngờ:

- Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá!

- Mà có đúng hông đã"

- Thì đúng!

- Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!

Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt:

- Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi.

- Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ!

Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm.

- Không! Tôi không nhận đâu! Vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi"

- Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà"

Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô , Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem. Nàng không quên đưa tay chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình.

- Đó! Hai thằng con của tôi đó!

Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy:

- Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả!

Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng:

- Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó!

Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy:

- Ký "dận" vô đây đi!

- Viết gì bây giờ hả Dì"

- Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!

Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt:

- Mời Dì uống miếng nước rồi đi!

Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó: "Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!"

Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước cộng sản tổ chức.

Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà.
Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn: "Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được. Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này". Ba năm anh đi "cải tạo" về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ!

Tập trung tại một ngôi chùa Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của những người Hoa cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài. Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà...

Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta, bà la bài bài:

- Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả"

Một tay bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói:

- Cháu không phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi, đói quá, định "xin" bác ít tiền để ăn chờ ngày đi thôi. Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi!

Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên:

- Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày!

Tiếng cười xen lẫn tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác thở dài xót xa. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao" Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ "nhà nước" buôn người nên họ phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay. Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung!

Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn. Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn". Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy...

Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát... Những cơn sóng dữ... đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.

Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và... tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp... đốt! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng... một dịp tình cờ vì có người đói quá, trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!

Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy!
Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ:

- Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba"

Thúy im lặng vì nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào" Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ của nàng để nhờ người đem "quà" đến. Khi đó, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", nhưng không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải tìm cách nói khéo để an ủi con:

- Thì phải vài ba bữa nữa người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con!

Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu và càu nhàu:

- Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ" Con không muốn ở đây, nắng quá hà!

Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo:

- Các con mặc áo vào để che nắng thì bớt nóng!

Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực. Thúy ứa nước mắt nhưng vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau:

- Bữa nay mẹ nói mình được ăn no!

Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngư phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng. Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu, đầu anh bị va quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số đó mà còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên... vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt dàn dụa cả mặt mũi! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" chửi, nhiều lúc anh lại hát bài quốc ca cộng sản của nhạc sĩ Văn Cao "Thề phanh thây uống máu quân thù..."

Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn. Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng, hòng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra từng mảnh!

Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai đứa con đau đớn hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế. Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, vừa té rồi lại lật bật đứng dậy, lảo đảo chạy theo như cái bóng... Đến trạm Y Tế, bác sĩ khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát!

Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp tên họ của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: "Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong.
Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là "Hốt Rác", tiếng lóng có nghĩa những ai không có thân nhân. Hai chữ "hốt rác" từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm động: "Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến!" Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.

Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó... Và trời ơi... chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, bỗng loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc liền: "Em vẫn mãi mãi là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh em và các con gấp". Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì"" Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không...

Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.

Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: "Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt". Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ...

Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Câu nói của ai trong thời dân mình bỏ nước chạy trốn cộng sản, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng: "Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con!"
Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ gửi tiền về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ và nuôi mẹ cho mẹ bớt khổ trong chế độ cộng sản; nếu chẳng may con gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Và nếu bất hạnh hơn cả cái chết, con bị công an biên phòng bắt được thì... "Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán.... máu để nuôi con!"

Những cuộc hành trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào tim, nhưng Thúy phải viết - phải kể lại, kể lại một lần cuối rồi vĩnh viễn.... xếp vào kỷ niệm. Viết để những ai bây giờ và mai hậu chưa biết, đọc sẽ hiểu rõ tội ác của cộng sản ghê rợn như thế nào...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.