Hãy tưởng tượng có một loại vác xin chống ung thư đã tồn tại và nó có thể giảm đáng kể một loại ung thư đang phổ biến ở người Mỹ gốc Á và Pacific Islander (APIA). Những người ủng hộ trong một chiến dịch quốc gia để làm cho viêm gan B mãn tính, nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ung thư gan, trở thành một ưu tiên về sức khỏe công cộng nói rằng các công cụ hiện đang sẵn có; điều khó khăn là phải thông báo cho cộng đồng APIA và các chuyên gia y tế phục vụ họ.
Một chiến dịch tăng cường nhận thức mới gọi là “AIM cho B: Nhận biết, tham gia và huy động cho Viêm Gan B Mãn tính” tập trung đặc biệt vào APIA vì nhóm này chiếm tới 54 phần trăm tổng số các trường hợp viêm gan B mãn tính trên toàn quốc. Được đồng tài trợ bởi Tổ chức Viêm Gan B (Hepatitis B Foundation) và Bristol-Myers Squibb, chương trình này bao gồm một loạt sự kiện tổ chức trên toàn quốc vào tháng 5, cùng thời điểm với “Tuần Nhận biết Viêm Gan B Toàn Quốc” như được Thượng và Hạ viện Mỹ chỉ rõ. Trong quá trình diễn ra các sự kiện, các bác sỹ địa phương, các nhóm ủng hộ bệnh nhân viêm gan B mãn tính đã chia sẻ kinh nghiệm của họ về căn bệnh và thảo luận về tầm quan trọng của việc chẩn đoán và điều trị sớm.
Những người tham gia sự kiện đã đưa ra những lời giải thích mang tính văn hóa cho việc ngần ngại không muốn tiêm vác xin và, đối với những người đã nhiễm, không muốn được điều trị bằng thuốc. Các bác sỹ cho rằng nỗ lực giáo dục cần tập trung vào cộng đồng chăm sóc sức khỏe.
“Việc thiếu kiến thức xuất phát từ hai phía”, Bác sỹ Sam So, từng là một phẫu thuật gia ghép gan, hiện là chủ tịch Trung tâm Gan Châu Á (ALC) thuộc Trường Đại học Stanford. ALC có phòng khám điều trị viên gan B và theo dõi các bệnh nhân APIA. Hiện nay không có các tiêu chuẩn thống nhất để điều tra hoặc điều trị bệnh này.
Bác sỹ So, người đang giúp soạn thảo lại các quy tắc về bệnh viêm gan B của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (CDC), cho biết các tiêu chuẩn chính thức áp dụng cho cộng đồng chăm sóc sức khỏe đã có cách đây hơn 10 năm. Những chỉ dẫn hiện thời liệt kê những người đồng tính nam và những người sử dụng ma túy qua đường tiêm chích thuộc nhóm có rủi ro cao. Những chỉ dẫn mới sẽ bổ sung thêm APIA vào danh sách và điều đó có nghĩa là nhóm này cần phải thường xuyên đuợc xét nghiệm và theo dõi.
Trong số 8,7 triệu người Mỹ sinh ra ở Á châu, 75% là từ các quốc gia có tỷ lệ mắc viêm gan B mãn tính cao. Hiện tại việc điều tra về bệnh này không bắt buộc đối với người nhập cư.
Theo CDC, phụ nữ nhiễm bệnh và trở thành mẹ có tới 90% khả năng truyền bệnh sang con. Trẻ em lớn lên ở xung quanh những người nhiễm bệnh cũng có thể mắc bệnh thông qua tiếp xúc với máu. CDC nói những chỉ dẫn mới cần phải phản ánh những rủi ro lan truyền đối với APIA.
“[Nhưng] mục đích không phải là để dọa nạt mọi người hay rêu rao đây là một bệnh của người Châu Á,” Michelle Krotc, 36 tuổi, người đã biết được mình đã bị nhiễm viêm gan B trong lần mang thai đầu tiên, nói.
Mẹ và bà của chị, cả hai là người Việt nam, cũng bị viêm gan B. Con của Krotc đã được tiêm chủng lúc mới sinh nên không bị nhiễm. Chị cảm thấy yên lòng vì đã chấm dứt việc tiếp tục truyền vi rút trong gia đình, nhưng cảm thấy lo lắng cho các bà mẹ khác còn xa lại với nước Mỹ. Những người không có bảo hiểm y tế có thể bỏ qua việc điều tra bệnh tật và do đó có thể truyền vi rút sang cho con.
“Viêm gan B là một căn bệnh thầm lặng có thể lan truyền qua một cộng đồng thầm lặng,” Jeffery Caballero, Giám đốc Điều hành Hiệp hội các Tổ chức Sức khỏe Cộng đồng Châu Á Thái Bình Dương (AAPCHO), một tổ chức phi lợi nhuận gắn kết APIA với việc chăm sóc sức khỏe hợp với khả năng tài chính, nói. AAPCHO mới đây đã tham gia vào chiến dịch “AIM cho B” và sẽ bắt đầu một chiến dịch giáo dục mới nhắm vào hơn trăm mạng lưới bác sỹ và phòng khám trên khắp quốc gia.
Caballero nói rằng thuốc phòng ngừa không phải là thứ mà nhiều người APIA dùng trong việc chăm sóc sức khỏe thường xuyên của họ. Cách thức tiếp cận cộng đồng, ông nói, là nhấn mạnh vào sự liên kết tới ung thư gan bởi vì đây là một bệnh mà nhiều người đã biết.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, viêm gan B gây ra 80% tất cả các trường hợp ung thư gan, một trong 5 loại ung thư phổ biến nhất được chẩn đoán ở người Việt nam, Lào, Hàn quốc và Phi-lip-pin. Tỷ lệ ung thư gan trong đàn ông Mỹ cao gấp 8 lần đối với người Hàn Quốc và 13 lần đối với người Việt nam nếu đem so với người da trắng.
Những người ủng hộ trong lĩnh vực sức khỏe muốn đưa ra quan điểm rằng, bằng việc chấm dứt sự lan truyền của viêm gan B và điều trị những người đã bị nhiễm, họ cũng có thể tránh được ung thư gan.
Joan Block, người đồng sáng lập Tổ chức Viêm gan B, một tổ chức phi lợi nhuận chống lại căn bệnh này, nói mối liên hệ không phải lúc nào cũng rõ ràng vì dấu hiệu báo trước lại không cho thấy triệu chứng. “Những người bị nhiễm vẫn sống trong nhiều năm mà không biết có bệnh, và [viêm gan B] trở thành một trái bom hẹn giờ ở trong gan”, Block nói.
Bác sỹ So nói ông rất buồn phải gặp những bệnh nhân đã ở những giai đoạn phát triển nguy hiểm của ung thư gan mà biết rằng bệnh đó lẽ ra có thể tránh được.
Những người ủng hộ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bác sỹ và các nhà lãnh đạo cộng đồng đồng ý rằng sự thúc đẩy nhận thức trên toàn quốc là cần thiết, nhưng các nguồn lực dành cho viêm gan B mãn tính có thể sẽ làm bớt đi những khoản ngân quỹ của việc nghiên cứu và điều trị các bệnh khác.
“Khi bạn dành tiền cho một [bệnh] nào đó thì bạn phải bớt tiền dành cho bệnh khác”, Block thừa nhận, nhưng bà cũng nói thêm rằng bây giờ là thời điểm quan trọng để tập trung vào viêm gan B mãn tính. “Chúng ta thực sự đã có thuốc điều trị mới cho mọi người, những thứ mà chúng ta chưa có 5 hay 6 năm về trước”, Block nói.
CDC nói bây giờ là thời điểm xem xét lại các chỉ dẫn bởi vì cách mà mọi người sử dụng vác xin ngày nay sẽ ảnh hưởng đến sự phổ biến của viêm gan B trong thập kỷ tới. Trước khi vác xin trở thành yêu cầu bắt buộc vào năm 1991, 65 trong số 100.000 trẻ em APIA đã bị nhiễm viêm gan B mãn tính. Số lượng này đã giảm xuống 1 hoặc 2 trong số 100.000 trong năm 2002. CDC cho rằng việc giảm nhanh chóng các trường hợp trẻ em APIA nhiễm bệnh là do thành công của vác xin, nhưng cũng nói rằng khuynh hướng này sẽ phải tiếp tục.
Nhân viên y tế của CDC, Joanna Buffington, nói có một sự nhận thức sai trong công chúng rằng viêm gan B mãn tính không còn là vấn đề lớn bởi vì đã có vác xin. Thách thức tiếp theo, Block nói, là tiêm chủng cho người mới nhập cư và hoàn thành tiêm chủng cho những người sinh trước năm 1991.
Chúng ta có một cơ hội loại bỏ vi rút, và nếu chúng ta không làm điều đó bây giờ, căn bệnh sẽ lan truyền một cách thầm lặng từ thế hệ này sang thế hệ khác", Joan Block nói.
Bác sỹ So, người đã ngừng hành nghề phẫu thuật ghép gan để tập trung vào việc giúp đỡ APIA và các nhà chăm sóc sức khỏe của họ khắc phục vấn đề ung thư gan, nói sự thiếu kiến thức sẽ tiếp tục giết người. Mục tiêu của ông là để cho công chúng nhìn nhận viêm gan B một cách nghiêm túc như là họ đã nhìn nhận nhiều bệnh khác.
“Chỉ cần hình dung công chúng sẽ la ó nếu chúng ta đã có một vác xin HIV từ 20 năm rồi mà không sử dụng nó”, Bác sỹ So nói.
Để biết thêm thông tin về viêm gan B mãn tính hoặc chương trình “AIM cho B”, hãy truy cập trang www. hepb.org.
Một chiến dịch tăng cường nhận thức mới gọi là “AIM cho B: Nhận biết, tham gia và huy động cho Viêm Gan B Mãn tính” tập trung đặc biệt vào APIA vì nhóm này chiếm tới 54 phần trăm tổng số các trường hợp viêm gan B mãn tính trên toàn quốc. Được đồng tài trợ bởi Tổ chức Viêm Gan B (Hepatitis B Foundation) và Bristol-Myers Squibb, chương trình này bao gồm một loạt sự kiện tổ chức trên toàn quốc vào tháng 5, cùng thời điểm với “Tuần Nhận biết Viêm Gan B Toàn Quốc” như được Thượng và Hạ viện Mỹ chỉ rõ. Trong quá trình diễn ra các sự kiện, các bác sỹ địa phương, các nhóm ủng hộ bệnh nhân viêm gan B mãn tính đã chia sẻ kinh nghiệm của họ về căn bệnh và thảo luận về tầm quan trọng của việc chẩn đoán và điều trị sớm.
Những người tham gia sự kiện đã đưa ra những lời giải thích mang tính văn hóa cho việc ngần ngại không muốn tiêm vác xin và, đối với những người đã nhiễm, không muốn được điều trị bằng thuốc. Các bác sỹ cho rằng nỗ lực giáo dục cần tập trung vào cộng đồng chăm sóc sức khỏe.
“Việc thiếu kiến thức xuất phát từ hai phía”, Bác sỹ Sam So, từng là một phẫu thuật gia ghép gan, hiện là chủ tịch Trung tâm Gan Châu Á (ALC) thuộc Trường Đại học Stanford. ALC có phòng khám điều trị viên gan B và theo dõi các bệnh nhân APIA. Hiện nay không có các tiêu chuẩn thống nhất để điều tra hoặc điều trị bệnh này.
Bác sỹ So, người đang giúp soạn thảo lại các quy tắc về bệnh viêm gan B của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (CDC), cho biết các tiêu chuẩn chính thức áp dụng cho cộng đồng chăm sóc sức khỏe đã có cách đây hơn 10 năm. Những chỉ dẫn hiện thời liệt kê những người đồng tính nam và những người sử dụng ma túy qua đường tiêm chích thuộc nhóm có rủi ro cao. Những chỉ dẫn mới sẽ bổ sung thêm APIA vào danh sách và điều đó có nghĩa là nhóm này cần phải thường xuyên đuợc xét nghiệm và theo dõi.
Trong số 8,7 triệu người Mỹ sinh ra ở Á châu, 75% là từ các quốc gia có tỷ lệ mắc viêm gan B mãn tính cao. Hiện tại việc điều tra về bệnh này không bắt buộc đối với người nhập cư.
Theo CDC, phụ nữ nhiễm bệnh và trở thành mẹ có tới 90% khả năng truyền bệnh sang con. Trẻ em lớn lên ở xung quanh những người nhiễm bệnh cũng có thể mắc bệnh thông qua tiếp xúc với máu. CDC nói những chỉ dẫn mới cần phải phản ánh những rủi ro lan truyền đối với APIA.
“[Nhưng] mục đích không phải là để dọa nạt mọi người hay rêu rao đây là một bệnh của người Châu Á,” Michelle Krotc, 36 tuổi, người đã biết được mình đã bị nhiễm viêm gan B trong lần mang thai đầu tiên, nói.
Mẹ và bà của chị, cả hai là người Việt nam, cũng bị viêm gan B. Con của Krotc đã được tiêm chủng lúc mới sinh nên không bị nhiễm. Chị cảm thấy yên lòng vì đã chấm dứt việc tiếp tục truyền vi rút trong gia đình, nhưng cảm thấy lo lắng cho các bà mẹ khác còn xa lại với nước Mỹ. Những người không có bảo hiểm y tế có thể bỏ qua việc điều tra bệnh tật và do đó có thể truyền vi rút sang cho con.
“Viêm gan B là một căn bệnh thầm lặng có thể lan truyền qua một cộng đồng thầm lặng,” Jeffery Caballero, Giám đốc Điều hành Hiệp hội các Tổ chức Sức khỏe Cộng đồng Châu Á Thái Bình Dương (AAPCHO), một tổ chức phi lợi nhuận gắn kết APIA với việc chăm sóc sức khỏe hợp với khả năng tài chính, nói. AAPCHO mới đây đã tham gia vào chiến dịch “AIM cho B” và sẽ bắt đầu một chiến dịch giáo dục mới nhắm vào hơn trăm mạng lưới bác sỹ và phòng khám trên khắp quốc gia.
Caballero nói rằng thuốc phòng ngừa không phải là thứ mà nhiều người APIA dùng trong việc chăm sóc sức khỏe thường xuyên của họ. Cách thức tiếp cận cộng đồng, ông nói, là nhấn mạnh vào sự liên kết tới ung thư gan bởi vì đây là một bệnh mà nhiều người đã biết.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, viêm gan B gây ra 80% tất cả các trường hợp ung thư gan, một trong 5 loại ung thư phổ biến nhất được chẩn đoán ở người Việt nam, Lào, Hàn quốc và Phi-lip-pin. Tỷ lệ ung thư gan trong đàn ông Mỹ cao gấp 8 lần đối với người Hàn Quốc và 13 lần đối với người Việt nam nếu đem so với người da trắng.
Những người ủng hộ trong lĩnh vực sức khỏe muốn đưa ra quan điểm rằng, bằng việc chấm dứt sự lan truyền của viêm gan B và điều trị những người đã bị nhiễm, họ cũng có thể tránh được ung thư gan.
Joan Block, người đồng sáng lập Tổ chức Viêm gan B, một tổ chức phi lợi nhuận chống lại căn bệnh này, nói mối liên hệ không phải lúc nào cũng rõ ràng vì dấu hiệu báo trước lại không cho thấy triệu chứng. “Những người bị nhiễm vẫn sống trong nhiều năm mà không biết có bệnh, và [viêm gan B] trở thành một trái bom hẹn giờ ở trong gan”, Block nói.
Bác sỹ So nói ông rất buồn phải gặp những bệnh nhân đã ở những giai đoạn phát triển nguy hiểm của ung thư gan mà biết rằng bệnh đó lẽ ra có thể tránh được.
Những người ủng hộ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bác sỹ và các nhà lãnh đạo cộng đồng đồng ý rằng sự thúc đẩy nhận thức trên toàn quốc là cần thiết, nhưng các nguồn lực dành cho viêm gan B mãn tính có thể sẽ làm bớt đi những khoản ngân quỹ của việc nghiên cứu và điều trị các bệnh khác.
“Khi bạn dành tiền cho một [bệnh] nào đó thì bạn phải bớt tiền dành cho bệnh khác”, Block thừa nhận, nhưng bà cũng nói thêm rằng bây giờ là thời điểm quan trọng để tập trung vào viêm gan B mãn tính. “Chúng ta thực sự đã có thuốc điều trị mới cho mọi người, những thứ mà chúng ta chưa có 5 hay 6 năm về trước”, Block nói.
CDC nói bây giờ là thời điểm xem xét lại các chỉ dẫn bởi vì cách mà mọi người sử dụng vác xin ngày nay sẽ ảnh hưởng đến sự phổ biến của viêm gan B trong thập kỷ tới. Trước khi vác xin trở thành yêu cầu bắt buộc vào năm 1991, 65 trong số 100.000 trẻ em APIA đã bị nhiễm viêm gan B mãn tính. Số lượng này đã giảm xuống 1 hoặc 2 trong số 100.000 trong năm 2002. CDC cho rằng việc giảm nhanh chóng các trường hợp trẻ em APIA nhiễm bệnh là do thành công của vác xin, nhưng cũng nói rằng khuynh hướng này sẽ phải tiếp tục.
Nhân viên y tế của CDC, Joanna Buffington, nói có một sự nhận thức sai trong công chúng rằng viêm gan B mãn tính không còn là vấn đề lớn bởi vì đã có vác xin. Thách thức tiếp theo, Block nói, là tiêm chủng cho người mới nhập cư và hoàn thành tiêm chủng cho những người sinh trước năm 1991.
Chúng ta có một cơ hội loại bỏ vi rút, và nếu chúng ta không làm điều đó bây giờ, căn bệnh sẽ lan truyền một cách thầm lặng từ thế hệ này sang thế hệ khác", Joan Block nói.
Bác sỹ So, người đã ngừng hành nghề phẫu thuật ghép gan để tập trung vào việc giúp đỡ APIA và các nhà chăm sóc sức khỏe của họ khắc phục vấn đề ung thư gan, nói sự thiếu kiến thức sẽ tiếp tục giết người. Mục tiêu của ông là để cho công chúng nhìn nhận viêm gan B một cách nghiêm túc như là họ đã nhìn nhận nhiều bệnh khác.
“Chỉ cần hình dung công chúng sẽ la ó nếu chúng ta đã có một vác xin HIV từ 20 năm rồi mà không sử dụng nó”, Bác sỹ So nói.
Để biết thêm thông tin về viêm gan B mãn tính hoặc chương trình “AIM cho B”, hãy truy cập trang www. hepb.org.
Gửi ý kiến của bạn