Hôm nay,  

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông: Chờ Rác Biển

23/08/200900:00:00(Xem: 3215)

Chuyện kể hành trình Biển Đông: Chờ Rác Biển – Nguyễn Tiến Đức

LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cỏ, lá cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do. Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...

*

Trên đường vượt biển, nhiều khi người ta nhìn thấy dấu hiệu sự sống, dấu hiệu của đất liền trong rác rưởi. Tôi chờ rác biển còn hơn chờ người tình đến. Lần thứ nhất tôi thấy đám rác chỉ là những chiếc giầy cao gót của phụ nữ. Tôi vừa mừng vừa sợ. Sợ vì gần đấy có thể có ghe đắm. Mừng vì đó cũng có thể là có một bãi cát nào rồi. Lần thứ hai thì cái đám rác đó lại có đủ thứ như giấy, lon, chai lọ, dừa khô, mấy tàu lá chuối còn tươi nữa thì cái niềm hy vọng nó càng lớn, nhưng cuối cùng cũng chỉ là mừng hụt...
Tôi đi tất cả 3 lần. Hai lần trước tới điểm hẹn thì ghe lớn không tới, lại phải trở về. Cứ chuẩn bị xong xuôi lại đình. Chờ đợi rất mệt tim. Tụi du kích, công an địa phương chúng nó “căn me” dữ lắm. Dễ gì qua mắt tụi chúng. Mua thịt về làm chà bông không đi được lại ăn hết. Ăn hết rồi làm lại, chờ họ báo để chuẩn bị đi.
Lần thứ 3 họ chỉ báo trước có 2 ngày thôi. Cũng như 2 lần trước, tôi không mang nhiều đồ. Ba người chị cản trở tôi quá mà tôi vẫn đi. Tôi là con Út trong gia đình. Má tôi mất từ hồi tôi mới được 9 tháng. Má tôi có báo mộng cho bà chị thứ 2 của tôi bảo con Út đừng có đi. Đi chuyến này khổ lắm. Nhưng tôi đã quyết định rồi. Chị Hai tôi có nhờ bà dì Năm nỉ tôi ở lại nhưng tôi vẫn nhất định đi là đi. Tôi cũng thấy không có nao núng gì. Còn ba tôi thì mới mất. Thế là tôi không còn gì để luyến tiếc Sài Gòn nữa, mặc dù tôi rất khổ tâm bỏ 3 người chị ở lại. Hơn nữa tôi lại có hai ông anh đang ở Mỹ rồi.
Cứ nghĩ tới đồng lương, tương lai tù túng, mịt mù, ngày hôm sau cũng như ngày hôm nay, chán nản vô cùng. Tôi làm kế toán cho Hợp Tác Xã Cơ Khí. Trước khi đi tôi cũng nhờ ông thầy khá nổi tiếng chấm tử vi. Thấy bảo đến 52 tuổi tôi mới đi được. Không ngờ số 52 nó trùng với số ngày sống dở chết dở của tôi trên biển thôi. Ông còn nói lấy chồng, tôi sẽ bị trắc trở tình duyên. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến chuyện đi thôi, còn lòng dạ nào mà nghĩ tới duyên nợ. Nghe ông ấy “phán” về nhà nản quá, nhưng tôi đã nhất quyết đi rồi. Tôi thử cãi số xem sao.
Tôi tình cờ gặp lại cô bạn cũ ở Trà Vinh đã lâu rồi không gặp. Cô này cũng quen một cô ở Trà Vinh bán vải. Cô ấy đang sửa soạn vượt biển. Tôi phải quyết định trong có 3 ngày. Tôi không biết mặt cô ấy, và cô ấy cũng không biết mặt tôi. Cứ thỏa thuận và tin nhau thôi.
Tôi tìm đến nhà cô ấy vào một buổi chiều mưa tầm tã. Tôi mặc một chiếc quần đen và một chiếc sơ mi sọc. Tôi mang theo mì gói, củ sắn, sâm caoly, hai hộp sữa đặc, và hai mươi bốn viên thuốc chống say sóng.
Khoảng hơn một giờ đêm tháng 9 năm 1989, có hai chiếc Honda chở tôi, chị Nguyệt và một thằng bé. Lúc đó lạ lắm. Trời tự nhiên tạnh mưa. Tôi rất mừng vì dù sao cũng là điềm lành.
Hai người thanh niên chở chúng tôi tới một cây cầu, rồi thả chúng tôi tại đó, và bảo sẽ có người liên lạc để đưa ra ghe lớn. Lúc đó tôi cũng thấy có bốn người đang chờ. Sợ kinh khủng. Chờ mà tim cứ đập thùm thụp. Thỉnh thoảng có xe hàng hoặc có người, mình lại phải nấp xuống gầm cầu gần đó.
Rồi cuối cùng tôi thấy có ánh đèn pin lia đi lia lại. Biết là “phe mình” mà vẫn cứ hồi hộp. Chúng tôi thấy một ông già và ông ấy đưa chúng tôi xuống ghe. Trên ghe tôi thấy có bó mía.
Tảng sáng thì tôi thấy có thêm 3 chiếc ghe nữa cũng đang chờ ở đó. Chúng tôi lấy vải che kín cửa ghe. Ngồi chờ cả ngày rồi mới được bốc ra ghe lớn. Tôi thấy người ta cũng kéo lên ghe một cái xuồng ba lá đựng mấy cần xé củi nữa. Tôi cũng chẳng biết họ mang theo xuồng để làm gì. Thế là chiếc ghe lớn rời địa điểm đổ người. Không có chuyện gì trục trặc. Tôi cũng mừng trong bụng.
Có một buổi tối tôi nghe thấy ông Tư, người chủ ghe nói với anh tài công là phải châm dầu đều đều không thì máy tắt liền, vì máy đã cũ rồi. Tôi nghe lén thôi, điều này làm tôi hơi ơn ớn.
Trên ghe có hai thanh niên tên Dũng. Một anh là Dũng quăn, vì anh này có mái tóc xoăn tít. Còn anh Dũng kia là anh tài công.
Ngày thứ hai thì tôi để ý thấy anh tài công để mắt đến một cô gái khá xinh. Hai người cứ quấn quýt lấy nhau như “sam”, trò chuyện huyên thuyên. Quả nhiên cái điều tôi ơn ớn vào ngày thứ 3 nó là sự thật. Anh tài công mải nói chuyện với cô gái nên quên châm dầu vào máy, thế là máy chết ! Loay hoay mãi máy cũng không chạy. Mọi người lo sợ không thể tả được. Có một thanh niên còn đòi phải cho anh ta một gói mì thì anh ta mới sửa. Anh ta lấy con dao cùn và cái búa trên ghe, vặn vặn, đập đập lia lịa mà máy cũng chẳng nổ. Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều của ngày thứ 3. Mới 3 ngày mà đã có chuyện rủi! Cuối cùng chỉ có anh sửa máy là lời được gói mì.
Ngay lúc đó, có người nhìn thấy con một tàu từ xa tiến lại gần. Người thì la, người thì hét, người thì vẫy tay lia lịa. Rồi có thêm hai tàu nữa đến. Nó cứ đảo qua đảo lại rồi bỏ đi. Lúc đó tôi quá thất vọng. Cổ cứ khô lại, mà miệng thì đắng. Gặp tàu nó không vớt thì chừng nào mới vớt đây" Đêm hôm đó họ lại hì hục sửa máy, nhưng cái máy cũ quá không thể chạy được nữa.
Sang ngày thứ tư, mọi người cứ nằm dài ra mà chờ tàu đi ngang qua để kêu cứu. Rất nhiều tàu, kể cả tàu có mang cờ Nhật đi ngang qua mà họ cũng không ngó ngàng tới. Chúng tôi bắt đầu đói rồi. Tôi luôn luôn ôm cái giỏ đồ ăn trong người. Lúc này tôi phải nhấm sâm để cầm hơi. Sức đã bắt đàu kiệt rồi. Tôi cũng mang theo cả củ thục địa nữa. Có đồ ăn mà không dám ăn. Phải giữ để thủ thân.
Tới ngày thứ chín, mệt quá tôi đành lấy một hộp sữa bò rồi lấy đầu con dao cùn người ta sửa máy hôm trước, đục hai lỗ nhỏ xíu, mút một hụm sữa. Cái nỗi thèm khát nó dữ dội vô cùng. Ăn sữa xong thấy trong mình khoẻ lên. Tôi cũng cho chị Nguyệt mút một hụm.
Đêm đó mệt lả, tôi ngủ thiếp đi, chẳng biết trời trăng là gì. Lúc tỉnh dậy, giỏ đồ của tôi mất hết trơn. Chỉ còn lại có mấy gói mì gói. Tôi la lên rồi xin lỗi mọi người, đi tìm giỏ đồ ăn. Nhưng có lẽ đói quá, họ ăn mất tiêu rồi. Lúc đó tôi thấy mạng sống của mình bị đe doạ.
Đến ngày thứ 18, mọi người trên tàu đều sống ngắc ngoải. Không còn cái gì có thể ăn được nữa. Cuối cùng có anh Ba Phối và một người nữa tình nguyện lấy cái xuồng ba lá chở củi mà lúc đó xuống đã thủng rồi, để đi tìm tàu khác giúp.
Thế là ông chủ tàu và vài người nữa phải mất một ngày “xàm” lại cái xuồng. Ông cũng yêu cầu ai còn vàng, còn thức ăn gì thì cho anh Phối và người đi cùng. Tất cả thu được chín chỉ vàng. Có một người Miên tên là Si-Ba giấu được nửa lít cốm dẹp và một ít gạo mốc đã sắp thành bột đem cho hai anh. Anh Ba Phối nói anh đi để cứu hai đứa con trai không thì chúng sắp chết đói. Thằng anh rất đuối sức. Một đứa tên Trung, một đứa tên Kiệt.
À, tôi còn quên một chi tiết nữa. Cái con dao cùn mà tôi dùng để đục hộp sữa hôm nọ rất là được việc. Họ đã dùng con dao này đẽo một cái bơi chèo lấy từ cái bẹ ván ghe. Hai ông tài công cũng cho họ được 3 xị nước. Có một người còn cho hai anh một tấm nylon để hai anh làm mui che nắng. Nắng ở biển giống như dầu hắc trải đường.
Tảng sáng ngày thứ 18, chiếc xuồng ba lá rời ghe đi tìm tàu để cầu cứu. Lúc đó trăng sáng cả một vùng biển. Lúc hai người xuống chiếc xuồng, tự nhiên nước mắt tôi cứ trào ra. Nhiều người khác cũng khóc như tôi. Tôi nghĩ giữa biển cả mênh mông, mưa gió như vậy, chiếc xuồng chịu sao nổi.
Lạ một điều là chiếc xuồng đi được một đỗi là mặt biển lặng như tờ, như một cái hồ. Mặt biển im phăng phắc như một cái nhà mồ đến 3 ngày như thế mà không thấy chiếc xuống của anh Ba Phối và người bạn trở về. Chúng tôi đoán chắc là cả hai người đã làm mồi cho cá mập.
Sang ngày thứ 18, khát nước quá, ông chủ tàu đã dùng một cái nồi nhỏ và hai cần xé củi còn lại nấu nước biển để chưng lấy nước uống. Họ tranh nhau lấy mấy giọt nước uống còn hơn giật vàng nữa. Tôi liếm nước trên cái vung đọng hơi nước mà cũng đỡ khô họng. Một người đàn bà không tranh được nước, thức cả đêm nấu mà được có một chum nhỏ xíu.
Đến ngày 19 thì trên tàu còn dầu, nhưng ông chủ tàu không cho ai đụng đến để nấu nước. Ông ta cũng có một cái vợt cá. Cái vợt mới được lắp cán. Ông giữ độc quyền vớt cá! Ông vớt được cá là lấy dầu nấu giữ cho bốn người ăn riêng.


Tới ngày thứ 21 có một tàu xuất hiện, nhưng nó cũng đi luôn. Qua ngày thứ 24, lại có một tàu ghe lưới từ xa đến. Chúng tôi lấy quần áo cũ đốt để có khói cho họ nhìn thấy. Thế là nó táp lại gần. Nhưng nó lại sợ mình là cướp. Thật khổ. Mình cầu cứu người ta mà người ta lại sợ mình. Thuyền trưởng là người Mã Lai biết nói tiếng Tàu. May mà trên ghe có anh Thoại, anh ấy biết nói được cả tiếng Anh lẫn tiếng Tàu. Ông ta nói là chính phủ Mã Lai không cho tàu vượt biên vào. Ông ta quăng dây xuống biển để truyền nước và thực phẩm xuống ghe.
Dũng quăn nhào ngay xuống nước, lẹ như một con rái cá. Anh ta kéo cái dây vào sát ghe, rồi truyền hai can nước 40 lít đổ ngay vào cái khạp làm bằng da bò để trên ghe. Mọi người tranh nhau uống. Tôi không được uống một giọt nào.
Họ cũng cho hai con cá, mỗi con đến 10 ký, hai thùng nước ngọt. Một thùng đựng 24 lon nước chanh. Họ cũng cho thêm một túi gạo nhỏ. Nhưng chủ tàu và Dũng quăn giữ hết. Ai có đóng tiền cho hai người đi xuồng ba lá hôm rồi thì mỗi người được một lon nước ngọt. Gạo thì chỉ phát cho mỗi người một chung thôi. Rang lên còn đúng một lòng bàn tay. Mấy bà có con nít thì cho gạo rang vào nước biển nấu thành cháo cho con húp. Cá thì họ khía ra từng khía phát cho mỗi người.
Qua ngày thứ 25, 26, họ mới mang nước ngọt ra bán. Năm phân vàng một lon. Ai không có vàng thì đành chết khát thôi. Bao nhiêu nhẫn dây chuyền bỏ ra đổi lấy nước hết. Bán nước ngọt xong họ bán tới nước trong hai cái can mà tàu Mã Lai cho. Thời gian này anh tài công cũng vớt được cá, anh ta bán hai con cá năm phân vàng. Tôi và Nguyệt đổi hết một chỉ rưỡi để lấy cá ăn cầm hơi. Ai không có vàng thì mua chịu. Cứ ăn cầm cự như thế cho đến ngày thứ 44.
Có những ngày hứng nước mưa cũng rất hào hứng. Chúng tôi hứng nước bằng những mảnh áo mưa đã rách tả tơi. Tôi lấy 3 mảnh áo mưa rách, xoi lỗ bằng cái đầu con dao cắt móng tay, rồi tước dây nylon khâu từng mũi, 3 ngày mới xong.
Có những trận mưa nhỏ trêu chọc mình. Có rất nhiều mây đen tụ, gió gào thét dữ dội, rồi mây đen bay đi hết. Chỉ rơi lác đác có vài giọt thế mà mình cũng phải liếm để mà sống sót. Con nít sáu bảy tuổi gì cũng lấy mảnh nylon bằng tờ giấy học trò đem ra hứng nước, trông như một cái lễ đón mưa, vừa ma quái vừa vui. Như một đám thây ma đón mưa!
Sáng ngày thứ 44, có một thằng bé xin ông chủ ghe cho nó một tí nước. Ông không cho và mắng: “Mày làm biếng chết ráng chịu. Không chịu hứng nước như người ta. Mày mà lạng quạng tao đạp mày xuống biển.”
Nó sợ lắm, vì ông ta đã từng đạp vài người xuống biển rồi, may mà có người vớt lên.
Đến khoảng ba giờ chiều lúc đó, tôi đang lim dim ngủ phía sau buồng lái, chợt tôi bật dậy như cái lò xo, khi nghe thấy người ta la lên: “Thằng Hưng chết rồi!” Con bé Năm nó tưởng thằng Hưng ngủ, nhưng sao đầu nó chấm xuống nước, mà kêu hoài nó cũng không dậy" Nó đã tắt thở lúc nào cũng chẳng ai biết.
Cả ghe cùng khóc, tại vì người ta thấy cái số phận của họ rồi cũng như Hưng thôi. Ông chủ ghe kêu hai người đàn ông nữa khiêng Hưng lên phía trước khoang ghe. Thằng Hưng chỉ còn da bọc xương. Hai hố mắt nó sâu hoắm. Trông nó như một khúc cây mục. Bây giờ tôi vẫn bị khuôn mặt nó ám ảnh.
Người ta xin một bộ quần áo cũ choàng cho nó. Ông chủ ghe đem một chung nước với một cái đuôi cá đã nấu chín để cúng Hưng. Tôi nghe ông khấn vái: “Hưng ơi! Bây giờ mày đói mày khát, cũng là lỗi tại tao. Mày sống khôn thác thiêng phù hộ cho tụi tao, đẩy chiếc ghe này vào bờ. Nếu mày không đẩy thì tụi tao chết hết mất!”
Cúng xong ông kêu mọi người đến vuốt mắt cho Hưng. Mắt nó cứ mở trừng trừng. Tôi chỉ dám sờ nhẹ vào chân nó và lắc lắc. Tôi khấn nó trong bụng như thế này: “Hưng ơi! Lỗi cũng tại chị. Chị không cho em uống nước. Nhưng cũng vì sự sống mà chị phải thủ thân thôi. Em bỏ qua cho chị. Nếu em phù hộ cho ghe này đến nơi an toàn, chị sẽ cúng em một mâm chị nguyện như thế!”
Rồi người ta khiêng xác Hưng ném tùm xuống biển. Nhưng thật rùng rợn! Cái đầu của Hưng cứ nổi lên mặt biển và theo sát sau đuôi ghe hoài. Ông Tư bảo: “Cái thằng Hưng này kỳ cục thật! Nó sợ ở trên biển một mình chắc"” Cái xác cứ theo ghe đến mấy tiếng đồng hồ, cho đến lúc có một bầy cá heo nhào đến ghe, quần cái xác. Cá nhào lên nhào xuống. Tôi không biết nó có ăn thịt người không nhưng mấy tiếng đồng hồ sau cái xác cũng mất tiêu theo đàn cá heo. Có lúc tưởng ghe muốn lật vì đàn cá đó.
Trời tối sập xuống thật lẹ. Hết thấy đường rồi. Mặt biển như một màn sương dầy đặc. Cũng đôi khi tôi lãng mạn là đằng khác. Đói khát như thế mà thấy trời sao thật thơ mộng. Lúc đó có cả vạn con cá táp vào hai mạn ghe loang loáng bạc dưới ánh sao đêm, trông giống như cá rô biển lắm. Mỗi con đến nửa ký. Sao, nước biển, cá, cái đói khát, cái chết... đan vào nhau thành một thứ ảo giác lạ.
Tôi cũng nghiệm thấy trong chuyến đi này, cứ có một cái rủi sau đó lại có một cái hên, như có một bàn tay nào trên cao sắp xếp mọi chuyện. Sau khi thằng Hưng chết ông Tư lại vớt được đến 40 con cá rô biển. Không chừng thằng Hưng nó phù hộ cho mình!
Đêm đó trên ghe, người ta làm cá vui như ngày hội. Mọi người đều thức làm cá, chẳng ai ngủ. Cũng có lúc người ta hồi tâm. Ông chủ ghe lấy ra 17 con cá làm thịt phát không. Mỗi người được một cục thịt cá. Ông cũng phát cho mỗi người một ít nước ngọt. Nhưng sau đó thì ông ta lại bắt đầu bán cá. Một chỉ vàng mua được hai con. Có một anh tên Thanh nhờ tôi bảo đảm mua cá chịu, khi nào lên đảo sẽ trả bằng đô la! Ông chủ rất ghét anh này. Tôi có uy tín trên ghe lắm ông mới bán chịu.
Trên ghe có một cô tên Hồng. Cô này đi chung với chồng nhưng ghe lạc nên bị bỏ lại Việt Nam. Cô ấy mang giầy dép quần áo của chồng đưa cho ông Tư đổi lấy cá ăn. Một đôi giầy chỉ được cái đầu cá!
Đến ngày thứ 46, trên ghe lại có thêm người chết nữa. Đó là một cô gái người Trung Hoa, tên cô là Lừng. Trước đó một tuần, cô ta mê sảng như người bị quỷ ám. Cô ấy có một cái áo lạnh cũng mang đổi cá để ăn. Lúc chết mình mẩy cô ta lạnh cóng và thâm tím. Trên ghe chúng tôi cúng bái cô rồi thả xác xuống biển như lần Hưng chết.
Sau khi cô Lừng chết thì thấy có một cái máy bay xuất hiện. Nó thả một thùng gì to lắm xuống biển. Mọi người đoán có lẽ nó tiếp tế thực phẩm. Ông Tư bảo ai tình nguyện bơi ra kéo cái thùng vào ghe, nhưng chẳng ai dám liều mạng, rồi thì chiếc máy bay cũng bỏ đi.
Sáng ngày thứ 48, độ khoảng sáu giờ chiều, có một cái tầu tiến đến ghe. Chiếc tầu đó tắp vào ghe. Toàn công an Mã Lai. Họ kiểm soát ghe xem có vũ khí không rồi họ mới phát cơm, nước, tôm khô, trứng tráng. Lúc đó mừng quá chẳng thấy đói. Những người đói quá thì nằm liệt không ăn nổi.
Họ cột chiếc ghe vào tàu của họ rồi kéo đi đến sáng ngày thứ 49, rồi họ ngừng lại tiếp tế nước, bắp cải, đậu xanh hộp, dưa leo ăn một ngày không đủ. Cuối cùng họ tháo dây ròng, bỏ ghe lại ở biển. Lại tiếp tục đói, lại tiếp tục chờ đợi, tiếp tục sống trong kinh hoàng đe doạ.
Sang ngày thứ 50, trời mưa tầm tã. Lạnh khủng khiếp. Tôi mặc 2 cái áo lạnh mà răng vẫn đánh bò cạp. Trên biển lúc đó có những đám rong to bằng cái nhà đang nổi lềnh bềnh. Thấy rong biển trôi ai cũng mừng. Ông Tư thấy một cái cây bám đầy hến. Ông vít lấy và dùng con dao cùn gạt một đống xuống sàn ghe. Người ta vớt rong ăn. Tôi ăn thử nhưng nuốt không nổi.
Chợt có con bé tên Thoa la lớn: “Tàu đến! Tầu đến!” Lúc ấy khoảng 10 giờ sáng. Nhưng ngay lúc trông thấy cái tàu thì một thằng bé trúng gió nặng. Người ta đánh gió cho nó. Cổ nó bầm đen. Nhưng muộn quá rồi, tôi thì cũng gần cạn dầu gió nên phải giữ để phòng thân. Thằng Taxi đã tắt thở khi tàu Hy Lạp tới.
Mọi người quơ chân quơ tay lia lịa ra hiệu cho chiếc tàu. Lúc đó tôi vốc 2 vốc đầy hến biển cho vào túi áo. Tôi cũng bốc một nắm ăn sống. Tanh mà ngọt không thể tả được. Ăn xong vốc hến, tôi như được truyền một sức sống kỳ ảo, một phép lạ. Vỏ hến mềm nên tôi nhai cả vỏ.
Lúc cái tầu Hy Lạp tiến đến gần cái ghe, ông Tư nảy ra một ý kiến. Ông bảo khiêng xác thằng Taxi và ông Long lúc đó đã kiệt sức lắm rồi lên sàn ghe để họ biết trên ghe có người sắp chết, may ra họ cứu chăng.
Trên tàu họ chụp hình chiếc ghe lia lịa. Tàu đi vòng đến 30 phút mà cũng không động tĩnh gì. Mọi người lại thất vọng. Chắc nó lại bỏ đi như tàu của Mã thôi!
Cuối cùng chiếc tàu cứu chúng tôi thật ! Họ thả thang dây xuống cho những người khoẻ lên trước. Lại tranh nhau lên! May mà không có ai rớt xuống biển.
Những người yếu như tôi lên sau. Tôi là người lên gần cuối chót. Những người không đứng dậy được thì phải nhờ vào mấy cái cần xé đựng củi rồi kéo lên sau cùng.
Xác thằng Taxi và chiếc ghe bị chiếc tàu dùng cái cần cẩu cẩu lên rồi đập xuống. Lúc chiếc ghe chìm, tôi và nhiều người ứa nước mắt khóc không thành tiếng.
Lên tàu, Những người thuỷ thủ phải bế từng người như bế con nít đi tắm. Lúc đó đầu tóc tôi như rơm rạ. Tôi sụt còn 29 ký! Mặt mũi cháy đen đúa như quỷ, đâu có trắng trẻo như bây giờ. Tắm xong họ phát cho phụ nữ những chiếc áo đầm rộng thùng thình, trông tức cười mà chẳng ai còn hơi để mà cười. Họ sát xà bông cho mình và kỳ lưng cho mình nữa! May mà họ không nhìn thấy chí bò trên đầu mình. Mà có thấy thì chắc chẳng ai còn mắc cỡ gì. Mệt muốn chết.
Làm vệ sinh thân thể xong, họ phát cho mỗi người một cục xà bông, bánh kẹo, mà đâu có ăn nổi. Chỉ khát nước thôi. Khát đến khô họng. Mà bây giờ không cần có vàng mới có nước!
Khoảng 8 giờ đêm hôm đó, lại có 1 phụ nữ chết. Thật tội ! Chị mang theo 2 đứa con 8 hoặc 9 tuổi gì đó. Bố chúng thì đang sống ở Mỹ, chờ vợ con sang đoàn tụ. Thế là lại có thêm một người nữa bị ném xuống biển. Hai đứa bé khóc mẹ trông thảm thương vô cùng. Tới nơi rồi mà còn chết.
Tới 10 giờ sáng ngày thứ 52 tàu cặp bến Mã Lai. Nhưng tàu này nghèo quá không đủ tiền đóng cho chúng tôi. Lằng nhằng thủ tục giấy tờ mãi tới 7 giờ tối mới lên được bờ. May mà bà đại diện Cao Uỷ Tỵ Nạn bảo lãnh nói sẽ đóng tiền sau. Tiền do chính phủ Thuỵ Điển cấp.
Lên đến đất liền chúng tôi mới biết là cái xuồng ba lá của ông Ba Phối, bố của em Trung và em Kiệt cuối cùng đã trở về Việt Nam an toàn. Ông viết thư cho 2 con nói họ phải lênh đênh trên biển cả đến 9 ngày mới gặp tàu đánh cá ở Thuận Hải vớt. Có bao nhiêu vàng nộp hết lại còn phải theo tàu đánh cá hơn 10 ngày nữa mới được thả. Thế mà chúng tôi cứ tưởng cá mập ăn 2 người rồi. Số không chết là không chết.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bốn người được báo cáo đã bị giết chết hôm Thứ Năm sau một vụ cảnh sát rượt đuổi qua nhiều quận đã kết thúc trong trận đấu súng trên đường Miramar Parkway theo sau một tên cướp có vũ khí tại Coral Gables, tiểu bang Florida.
Mỗi năm lên tuổi già đi, tưởng đâu đã được an nhàn, nào ngờ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tối mắt đấu tranh để tồn tại vì các chứng nan y: Suy thoái tư tưởng; Đạo đức xuống cấp; Tham nhũng; và, Lợi ích nhóm trong trong cán bộ,đảng viên.
Bản thông báo của cảnh sát đưa ra hôm Thứ Năm ngày 5 tháng 12/2019, cho biết cô bé mất tích tên Lara Nguyen, 12 tuổi, cư dân thị trấn Menda. Lần cuối cô bé được nhìn thấy là tại nhà cô bé này ở đường Coppice Street, khoảng 8 giờ sáng hôm Thứ Tư ngày 4 tháng 12/2019.
Sài Gòn: Trong 11 tháng kiều hối đạt 4,3 tỷ USD, dự kiến cả năm 2019 dự kiến 5,3 tỷ USD, tăng trên 9% so với năm 2018. Kiều hối về đã giúp sản xuất kinh doanh, giải quyết khó khăn đời sống người thân, giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho kinh tế Tp SG phát triển.
Do dự đoán thời tiết sẽ có 40-50% cơ hội mưa rào vào Thứ Bảy tới, 7 tháng 12 - ngày sự kiện ‘Winter in the Grove’, Thành phố sẽ dời sự kiện này đến ngày thứ Năm tuần sau, vào ngày 12 tháng 12, và chương trình sẽ bắt đầu lúc 5:00 giờ chiều đến 8:00 giờ tối
Tại nhà hàng Diamond 3, Westminster, Nam California, Tối thứ Sáu, ngày 29 tháng 11 năm 2019, Hội Đồng Hương Quảng Nam – Đà Nẵng (QNĐN) đã tổ chức buổi tiệc tri ân các mạnh thường quân và các ân nhân đã ïđóng góp cho chương trình cứu trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa Quảng Nam Đà Nẵng.
Hôm biểu tình 17/11, lãnh tụ trẻ Joshua Wong hô lớn khẩu hiệu "Hồng-kông là Bá-linh mới !" trước đông đảo dân Hồng-kông tụ tập tại Công trường Edimbourg trong khu phố doanh thương.
Chính phủ Trump đang thắt chặt các đòi hỏi làm việc đối với một số người nhận phiếu thực phẩm, một sự thay đổi dự kiến sẽ loại bỏ các lợi ích của Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung (SNAP) cho 688.000 người lớn.
Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Tư đã đột ngột bãi bỏ cuộc họp báo đã được lên lịch trình để kết thúc chuyến đi đầy tranh cãi tới Anh cho cuộc họp năm thứ 70 của Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương gọi tắt là NATO.
Có 422.9 triệu khẩu súng đang lưu hành, khoảng 1.2 khẩu cho một người Mỹ, và 8.1 tỉ dây đạn được bán vào năm ngoái, chứng tỏ súng là phổ biến tại Mỹ, theo National Shooting Sports Foundation cho biết.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.