Bối cảnh dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam nói trên, đã trở thành một dấu hỏi lớn cho chính quân dân miền Nam về lý do vì sao lại để cho miền Nam sụp đổ, sau 20 chiến đấu rất kiên cường. Có người cho là tại đồng minh Hoa Kỳ không còn yểm trợ như đã hứa. Có người cho là Cộng sản Bắc Việt đã vi phạm hiệp định hòa bình Paris ký kết năm 1973, xua quân tấn công miền Nam. Có người cho là hàng ngũ lãnh đạo của miền Nam đã mất tinh thần khi biết là đồng mình Hoa Kỳ bỏ rơi sau vụ Phước Long. Sau này, những nhà viết sử sẽ truy cứu các tài liệu để cho chúng ta biết rõ hơn về những câu hỏi nói trên. Nhưng bây giờ thì trong cảm quan chung của mọi người Việt Nam, sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam là do những bội ước của Cộng sản Bắc Việt mà phía chính quyền miền Nam đã thiếu một chính sách để đối phó, dù đã biết trước sự bội ước này, ngay sau khi Cộng sản Bắc Việt đặt bút ký lên hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973. Cho nên dù biện minh đến đâu đi nữa kể cả việc trách cứ sự bỏ rơi của đồng minh Hoa Kỳ, chính quyền miền Nam Việt Nam phải nhận chân sự thất bại của mình trong nỗ lực chống Cộng sản xâm lăng. Đây là cái nhục đã làm mất nước và nó đã là Ngày Quốc Hận chung của quân dân miền Nam.
Vài năm sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, một số người ở miền Nam còn hy vọng một sự thay đổi nào đó tốt hơn từ một xã hội chiến tranh sang xã hội ổn định trong hòa bình, nên có thái độ im lặng chờ đợi. Nhưng qua một số chính sách cai trị gian ác và độc đoán sau đó của đảng Cộng sản như: bên trong thì khủng bố người dân bằng tù cải tạo, kinh tế mới, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa nông nghiệp; còn bên ngoài thì khống chế Lào, xâm lăng Cam Bốt, gây hấn Trung Quốc và đe dọa Thái Lan, đã làm cho đa số thất vọng và phẫn nộ, kể cả nhũng người đã một thời lầm đường ủng hộ Việt cộng trong phong trào chống chiến tranh Việt Nam. Có thể nói là từ năm 1977 trở đi, phản ứng chung của người dân trong nước đã biến từ cái nhục, cái hận sang hình thức chống đối dưới nhiều hình thức, đặc biệt là các tổ chức kháng cự đã được thành lập với mục tiêu lật đổ guồng máy áp bức này. Cùng lức đó, khi phong trào vượt biển lên cao điểm với những thảm kịch xảy ra trên biển Đông vào những năm 1979 và 1980, đã đánh thức lương tri của nhân loại về những thảm kịch mới trên vùng Đông Dương. Trong chiều hướng đó, người Việt ty nạn tại hải ngoại cũng đã nhìn ra rằng không thể ôm mãi tinh thần quốc hận với phản ứng ngậm ngùi thương tiếc của một quá khứ đã mất, mà phải đứng lên làm một cái gì đó với đồng bào quốc nội.
Những biến chuyển tâm lý đưa đến hành động đấu tranh nói trên đã cho chúng ta thấy rằng con người thường có những hành động tích cực khi biết biến những đau thương, tủi nhục của mình thành những nỗ lực cụ thể. Ngày 30 tháng 4 sẽ mãi mãi là ngày đau buồn và tủi nhục hàng năm... rồi thôi, nếu dân ta không đứng dậy với tinh thần kháng chiến để giải phóng đất nước vào đầu thập niên 80. Cho nên tinh thần Quốc Hận cần được ghi nhớ, nhưng phải đi cùng với tinh thần quật khởi, đấu tranh cụ thể mà người ta hay gọi là quốc kháng, thì sự nhắc nhở về mối hận đó mới có ý nghĩa. Điều này lại càng cần thiết hơn khi mà công cuộc đấu tranh đang có sự tiếp nối của thế hệ tỵ nạn thứ hai và thứ ba tham gia. Với những thế hệ trẻ này, ta khó có thể chia xẻ tất cả những điều oan trái của dân tộc đưa đến ngày quốc hận 30 tháng 4; nhưng nếu ta chia xẻ cho họ nhìn ra mục tiêu của cuộc đấu tranh và những nhu cầu trước mắt của dân tộc là tự do dân chủ và phú cường, thì giới trẻ dễ thông cảm hơn là bắt họ suy gẫm về nhũng niềm đau, niềm tủi nhục mà họ không trực tiếp liên lệ.
Trong tinh thần đó, để cuộc đấu tranh mở rộng trên nhiều lãnh vực và thu hút nhiều thành phần trẻ tham gia trong thời gian tới, chúng ta nên biết mở lòng lắng nghe và biết canh tân tư duy để không chỉ đóng khung trong một loại màu cờ sắc áo của một thời đã qua. Chúng ta khác với những người cộng sản không chỉ vì yêu chuộng Tự Do mà còn biết đề cao tính Nhân Bản của con người. Chính sự đề cao hai thuộc tính tự do và nhân bản, con người quốc gia rất đa cảm và luôn luôn coi lợi ích chung của dân tôc hay của xã hội cao hơn lợi ích của từng cá nhân, từng gia đình. Nhờ vậy mà dù trải qua những gian nan trên bước đường tỵ nạn hay bị những khủng bố, trù dập của chế độ Hà Nội ở trong nước, dân ta vẫn kiên cường đứng lên và luôn luôn coi giải phóng tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng. Dân ta đấu tranh không phải vì ghét Cộng, hận Cộng hay thù Cộng mà vì mục tiêu cao cả hơn, đó là xây dựng lại tình người trong một đất nước Việt Nam có tự do dân chủ thực sự.
Lý Thái Hùng
April 27 2005