Cuối tuần qua, trong hai ngày thứ Sáu và thứ Bảy 11-12 tháng Tư, 2008, đã diễn ra một Hội-nghị về Nôm-học ở Gladfelter Hall do Trung-tâm Nghiên cứu Triết-học, Văn-hoá và Xã-hội VN thuộc Temple University đứng ra tổ-chức. Cả Trung-tâm, mới có được mấy năm nay (từ năm 2004), và một hội-nghị về Nôm-học đều là những phát triển khá mới trong lãnh-vực Việt-học (nghiên cứu về VN) ở xứ này.
Một hội-nghị quốc-tế
Được thông-báo từ nhiều tháng nay, Hội-nghị Nôm-học này đã thu hút được sự quan-tâm của một số chuyên-gia về Chữ Nôm từ năm quốc gia gồm Việt-nam, Liên-bang Nga, Mỹ, Canada và Pháp. Trả lời sớm sủa nhất có lẽ là ông Nguyễn Quảng Tuân, được biết là một chuyên-gia hàng đầu về Kiều-học, đã gửi bài sang (nói về “Chữ Nôm trong Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu) trước từ tháng Giêng tây.
Từ Pháp có ông Jean Claude Ginhoux thuộc Viện Sinh-ngữ và Văn-minh Đông-phương (tức Trường Langues O’ cũ), một cựu-tuỳ-viên quân-sự bên cạnh Toà Đại-sứ Pháp ở Hà-nội, giờ quay ra học Chữ Nôm. Ông cho biết: “Ở Pháp, các chuyên-gia về Chữ Nôm ngày nay gần như không còn ai, và tôi hình như là người độc-nhất theo học ngành này ở Paris bây giờ.” Theo ông, các bậc giỏi Nôm của Việt-nam ở Pháp như G.S. Hoàng Xuân Hãn, G.S. Tạ Trọng Hiệp hay B.S. Nguyễn Trần Huân đều đã mất trên mười, mười mấy năm nay rồi, còn các chuyên-gia về Nôm người Pháp như B.S. Maurice Durand hay ông Paul Schneider (Xuân Phúc) lại còn ra đi sớm hơn nữa. Thậm chí, cả một giáo-sư ngữ-học như G.S. Nguyễn Phú Phong, trước dạy ở Paris VII, cũng không còn nữa.
Từ Liên-bang Nga, G.S. Nguyễn Tài Cẩn, do tình-hình sức khoẻ không cho phép, đã phải gửi bài sang (nói về “một số vấn-đề trong các văn-bản in Nôm” mà chúng ta cần lưu ý) để cho G.S. Ngô Thanh Nhàn tóm lược vào sáng thứ Bảy, 12/4.
Mở đầu hội-nghị
Khai mạc hội-nghị và chào mừng các tham-dự-viên là G.S. Philip Alperson, Giám-đốc Trung-tâm Nghiên cứu về Triết-học, Văn-hoá và Xã-hội VN ở Temple University. Sau đó, G.S. Sophie Quinn-Judge, trước kia là nhà báo và cách đây ít năm đã viết một cuốn sách rất được chú ý về những năm ông Hồ lặn mất ở Liên-xô, nhất là trong thập niên 1930 (Hồ Chí Minh, the Missing Years), giới-thiệu diễn-giả chính trong buổi sáng thứ Sáu, 11/4. Đó là G.S. Sử-học Trần Tuyết Nhung, hiện đang dạy ở Viện Đại-học Toronto, Canada.
Giáo-sư Nhung đưa ra một vấn-đề khá nhạy cảm, đó là vấn-đề cộng-tác giữa các học-giả ngoại-quốc và các chuyên-gia Hán-Nôm người Việt. Tỷ-dụ, một tác-giả Tây-phương có thể viết một cuốn sách về VN dựa vào những bản dịch hay những tài-liệu do người Việt cung-cấp nhưng khi ghi tên tác-giả lại không nhắc gì đến các cộng-sự-viên kia hay cùng lắm chỉ ghi thoáng qua trong một lời cám ơn ngắn ngủi (Đó là trường-hợp một số tự-điển Việt-Latinh hay Việt-Pháp mà ngày nay ta chỉ được biết dưới tên các tác-giả người nước ngoài). Sự-thể này gần đây còn xảy ra trong cả trường-hợp người Việt với người Việt.
Những chứng-tích sớm nhất về chữ Nôm từ đời nhà Lý (TK XII)
Thu hút được khá nhiều chú ý là bài thuyết-trình của G.S. Nguyễn Quang Hồng hiện đang dạy ở Đại-học Quốc gia Hà-nội. Ông nêu ra được một số tài-liệu viết bằng chữ Hán mà ta còn lại từ đời nhà Lý (TK XII), trong đó có lọt đôi ba chữ Nôm tên người hay tên đất, tên đầm, chứng tỏ chữ Nôm đã có trước thời Nguyễn Thuyên hay Nguyễn Sĩ Cố, dưới thời nhà Trần.
Nhưng giả-thiết đáng chú ý nhất của ông là cho cuốn kinh mang tên Phật thuyết Đại báo Phụ mẫu ân trọng kinh (trong đó có kèm theo bản dịch chữ Nôm cổ) có thể là một sản-phẩm của thế-kỷ thứ 12. Theo ông, trong cuốn kinh này có tất cả là 74 trường-hợp một đơn-âm-tiết ngày nay được ghi xuống thành hai âm-tiết (xuất hiện 104 lần) và 63 trường-hợp viết thành một đơn-ấm-tiết nhưng trong đó có ghi hai phụ-âm đầu (xuất hiện 100 lần). Điều này chứng tỏ là các cách viết đó còn rất cổ, cổ hơn cả cách viết Nôm trong các phú Nôm đời nhà Trần của thế-kỷ thứ 13 (như trường-hợp mấy phú Nôm của Trần Nhân-tông). Ngoài ra cũng còn những phát âm cho thấy ảnh-hưởng của phụ-âm chữ Hán đời Đường-Tống như “mân mân” cho “dần dần” trong tiếng Việt sau này.
Vai trò của Chữ Nôm trong việc phổ-biến chữ Quốc-ngữ
Phần trình bầy của Tiến-sĩ Nguyễn Nam, hiện đang làm việc ở Harvard-Yenching Institute ở Harvard, Boston, nêu được ra một sự-kiện khá lý thú. Đó là không phải một sớm một chiều, người ta đổi từ chữ Hán, chữ Nôm sang chữ Quốc-ngữ. Ngược lại, đã có một thời-gian khá dài (khoảng một nửa thế-kỷ) trong đó, các sách báo chữ Nôm như Đồng văn Nhật báo đã có những bài viết bằng chữ Hán để giới-thiệu cách đọc, cách viết chữ Quốc-ngữ, hoặc các sách dạy lính tập cũng chuyển dần từ Nôm sang Quốc-ngữ.
Sang phần thuyết-trình của ông Nguyễn Quảng Tuân, G.S. Ngô Thanh Nhàn cho biết đáng nhẽ ông Tuân đã có mặt (đã xin xong giấy xuất ngoại và đã mua vé) nhưng vào giờ chót, bác-sĩ đã giữ ở lại VN vì lý-do sức khoẻ. Do đó bài của ông đã phải thâu tóm lại, theo đó ông nêu ra một số trường-hợp văn-bản Lục Vân Tiên, do các đệ-tử của cụ Đồ Chiểu, ghi chép (bởi cụ bị mù từ sớm), đã cho thấy ảnh-hưởng của tiếng Việt miền Nam.
Bài của diễn-giả Phan Anh Dũng từ Huế, viết về tuồng Đàng Trong thế-kỷ 17-18, cũng đã được G.S. Ngô Thanh Nhàn thâu tóm lại để cho thấy một lãnh-vực nghiên cứu mới khá phong phú do những người như G.S. Nguyễn Văn Sâm, hiện ở Texas, đi tiên-phong từ những năm 70 của thế-kỷ trước.
Chữ Nôm Dao và chữ “là” trong tiếng Việt cổ
Chiều thứ Sáu, 11/4, các tham-dự-viên được nghe một bài thuyết-trình khá đặc-sắc của một chuyên-gia trẻ người Mỹ, anh Bradley C. Davis thuộc Khoa Sử Đại-học Washington ở Seattle, WA, trình bầy. Anh Davis cho biết, không hiểu vì sao, từ đời ông nội của anh, trong gia-đình anh đã có nhiều loại tiền cổ của VN, thời Đông-dương thuộc Pháp. Tò mò, anh đi tìm hiểu và cuối cùng, điều này đã dẫn anh sang VN để có hồi làm “ông tây ba-lô” đi thăm thú những nơi như Lào-cai, Sa-pa. Dần dần, anh đâm yêu đất nước và người VN, và hiện giờ anh đang là cố-vấn trong một chương-trình bảo tồn và phát huy chữ Nôm của thiểu-số người Dao. Anh cho biết, trong một tương-lai không xa, anh sẽ hoàn-tất một cuốn sách về vấn-đề chữ Nôm Dao.
Trái lại, ông Ginhoux thì tìm cách nghiên cứu ngữ-pháp tiếng Việt qua các bản Nôm cổ, như sách Phật thuyết nói trên. Dựa vào bản Nôm này, ông cho thấy tiếng Việt cổ hay dùng chữ “chưng” hay “là” để dịch chữ “chi” của bản chữ Hán. Mặc dầu bằng-chứng do ông nêu ra khá rõ ràng nhưng xem chừng hãy còn có người ngờ vực, chưa muốn tin hẳn cách giải thích của ông.
“Từ Điển Chữ Nôm Trích Dẫn”
Sang sáng thứ Bảy, ngoài phần tóm lược bài thuyết-trình của G.S. Nguyễn Tài Cẩn, có phần trình bày của G.S. Ngô Thanh Nhàn về một dự-án lớn ông đang làm chung với một số chuyên-gia Chữ Nôm và điện-toán ở trong nước và ở Bỉ, nhằm phân-tích chữ Nôm ra thành khoảng 600 “ideographeme” (tự-tố) để có thể dùng mô-tả được hầu hết các chữ Hán-Nôm trên thế-giới (vì hệ-thống Unicode cho chữ Hán hiện đang gặp bế-tắc, có tới ít nhất 6000 chữ Nôm hiện còn đang phải chờ để được công-nhận).
Song bài thu hút được sự chú ý một cách rộng rãi có lẽ là bài về “Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, quyển tự-điển đầu tiên xây dựng trên nguyên-tắc sử-học” của G.S. Nguyễn Ngọc Bích, thuộc Viện Việt-học (Westminster, CA) và Đại-học George Mason (Trung-tâm Nghiên cứu Đông-dương). Bài nói chuyện của ông đã duyệt lại tình-hình 600 năm từ-điển-học chữ Nôm (bắt đầu với Chỉ nam ngọc-âm giải nghĩa) và hơn 350 năm từ-điển-học Quốc-ngữ (bắt đầu từ Alexandre de Rhodes, 1651) để làm tiền-đề cho việc soạn thảo cuốn Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, đã được đưa lên Website của Viện Việt Học từ Tết năm 2005 (www.vienviethoc.org) và hiện đã được bổ túc và duyệt lại để chuẩn-bị in ra dưới dạng sách, khoảng 1700 trang, sắp ra mắt trên thị-trường trong vài tháng tới.
Sau khi được xem một số trang mẫu của TĐCNTD, G.S. Nguyễn Quang Hồng, người chủ-biên Tự Điển Chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà-nội (tác-phẩm được giải thưởng quốc gia 15 triệu đồng năm 2007), đã có nhận-định: “Chính chúng tôi cũng đã nghĩ đến việc in lại trích dẫn theo các bản Nôm cổ nhưng lúc bấy giờ chưa có khả-năng làm chuyện đó. Bây giờ, cuốn TĐCNTD đã làm được chuyện đó, chứng tỏ là nhóm làm tự-điển này đã bắt kịp với tiến-bộ của khoa-học thông tin và vi-tính của ngày hôm nay.”
Kết: Những khả-năng mở rộng của ngành Nôm-học
Và cũng để kết, G.S. Nguyễn Quang Hồng chia sẻ: “Ngành Nôm-học từ trước đến nay chủ-yếu là ngữ-văn-học, nghĩa là nghiên cứu các văn-bản, nhưng tới đây tôi thấy mình có thể quan-niệm các tài-liệu Nôm như một khách-thể chứ không còn chỉ là một đối-tượng nghiên cứu. Có nghĩa là ta có thể viết sử, viết về xã-hội-học, viết triết, viết lịch-sử khoa-học VN… mà dùng các tài-liệu Nôm làm cơ-sở nghiên cứu. Được như thế thì ngành Nôm-học trở thành mênh mông, không còn giới-hạn vào một số văn-bản nhất định nữa.”