Hôm nay,  

Hồi Ký: Thép Đen

16/10/200700:00:00(Xem: 2548)

LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc Châu, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.

*

(Tiếp theo...)

Dù đang cúi xuống, tôi cũng biết là cả 6 con mắt của chúng đang tập trung theo dõi thái độ của tôi. Vì vậy, tôi trả lời, vẻ bình thản:
- Thưa ông, nghe đâu có vụ đảo chính, và họ đã giết anh em Ngô Đình Diệm rồi!
Tên Nhuận giọng thử ý:
- Tôi biết mấy hôm nay anh buồn lắm, vì chủ anh đã chết rồi! Tôi nghĩ, như vậy là tốt cho anh đấy! Anh không còn phải mắc mớ điều gì nữa. Hãu tự cứu lấy mình, hãy khai báo hết với cách mạng. Còn như thằng Dương Văn Minh và một lũ Tướng, Tá, anh cũng biết đấy, chỉ là đồ bỏ! Rồi đây, chúng nó chỉ tranh giành nhau làm tay sai cho Mỹ, không hơn không kém!
Tôi vờ ngạc nhiên:
- Thưa ông, tôi buồn, hôm nào tôi chả buồn. Còn ông nói Ngô Đình Diệm là chủ của tôi, không đúng. Bởi vì tôi cũng chưa được nhìn thấy ông Diệm bao giờ cả. Hơn nữa, tôi cũng chẳng có ân huệ hay hận thù gì với ông ta. Còn khai báo, ngay từ đầu, tôi đã thành thật khai báo hết rồi, chứ không phải đợi tới bây giờ….
Tên Thành vội vàng cướp lời tôi:
- Anh nói vậy mà nghe được à!" Diệm là người Công giáo, anh cũng là người Công giáo, tất nhiên anh phải ủng hộ ông ta chứ"
Tôi vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên, cãi lại:
- Thưa các ông, như tôi đã nói với các ông nhiều lần trước đây, bố mẹ và họ hàng nhà tôi chỉ làm thương mại, buôn bán. Chỉ có mình tôi do sự bồng bột của tuổi trẻ, do ảnh hưởng của phim ảnh nên đã ngây thơ nhận nhiệm vụ của họ, ra ngoài miền Bắc. Chứ thực lòng tôi, ai là Tổng Thống, ai là Chủ Tịch cũng thế, vì tôi có hiểu gì về họ đâu! Vả lại, đối với tôi bây giờ, họ lại càng vô nghĩa nữa. Tôi đã chán ghét họ nhiều lắm rồi!
Thành lộ vẻ ngạc nhiên, gằn giọng:
- Sao anh lại cho là vô nghĩa đối với anh"
Mặt rầu rầu, tôi trả lời:
- Tôi bây giờ đã hiểu! Ngay khi ông Diệm còn sống, tôi đã thuộc loại đứa con đem bỏ chợ. Không một ai ở Sài Gòn lúc này còn nhớ đến tôi, có chăng chỉ còn bố mẹ và các em tôi. Huống chi, tôi sống hay chết, những người đảo chính còn quan tâm đến làm gì. Như vậy rõ ràng họ cón có nghĩa gì với tôi đâu"
Có lẽ tên Đức thấy chỉ là những câu đối đáp lằng nhằng, không đưa đến vấn đề gì, nên y đổi giọng:
- Theo anh, tình hình miền Nam rồi sẽ như thế nào"
- Thưa ông, tôi chẳng biết gì để nhận định. Nhưng, tôi cho rằng với tình hình như thế, rồi đây các Tướng sẽ tranh giành nhau, cắn xé nhua, xã hội sẽ càng lộn xộn. Chắc rằng “mặt trận giải phóng” do đảng lãnh đạo sẽ đứng lên cướp chính quyền một cách dễ dàng.
Cả 3 đứa sáng mắt lên, tên Nhuận cười rộ:
- Khá lắm, anh làm tham mưu được đấy!
Tôi lúng túng, dè dặt:
- Tôi hiểu các ông cười chế nhạo tôi. Các ông hỏi, tôi phải trả lời. Tôi nghĩ thế nào, thì nói thế, chứ tôi làm sao để biết được những vấn đề lớn ấy.
Tên Đức nghiêm giọng:
- Tôi nói thẳng cho anh biết, trong điều kiện tình hình hiện nay, vì lý do chính trị quốc tế, vì những khía cạnh liên quan ràng buộc, nếu không, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn, đánh từ Bến Hải dọc vào tới Sài Gòn, không khó khăn gì lắm!
Nghe y nói tôi tỏ vẻ rất tin tưởng:
- Như vậy, tôi thật mừng! Các ông sẽ vào bắt được cả Cục Tình Báo Miền Nam. Lúc đó, cách mạng sẽ hiểu được sự thành khẩn của tôi.
Để chúng tin hơn, tôi nói một vài sự việc lơ mơ:
- Về ông Diệm này, tôi nhớ đến vụ đảo chính 1-11-1960. Lúc đó,dư luận dân chúng miền Nam rất chê ông Diệm. Từ trước, ông vẫn lấy cây trúc ẩn biểu hiện lòng dạ thanh liêm, đạo đức trong sáng của ông. Từ những ý nghĩ cho đến lời nói, tất cả đều là mẫu mực tiết khí của người quân tử. Khi ông ta bị ở vào cái thế cùng quẫn, bị “hội đồng cách mạng” lúc đó vây hãm trong Dinh Độc Lập. Ông đã tuyên bố trên làn sóng điện, trước quốc dân đồng bào, cam kết với “hội đồng cách mạng” là ông bằng lòng chấp nhận sự thỏa hiệp với “hội đồng cách mạng” như một sự đầu hàng. Thế nhưng, sau đó, khi một số đơn vị ở các quân khu về tiếp ứng, phá được vòng vây và dẹp phe đảo chính, ông Diệm đã nuốt lời hứa, lời cam kết trước đó. Như thế, ông ta đâu còn là bậc quân tử mà cây trúc là biểu hiện"
Cả 3 đứa cùng cười, tên Đức giọng phân tích:
- Diệm xử sự như vậy, không có gì sai cả. Chỗ này, ông ta đã hành động rất đúng. Bởi vì, lời nói hay lời cam kết trong lúc bị uy hiếp, cưỡng bức, hay dưới một áp lực, đều không có giá trị.
Ngồi nhìn và nghe y nói, tôi thấy y cũng có kiến thức và hiểu biết. Từ những sự phân tích trên, tôi chợt suy ngẫm thêm: Thời đại ngày nay, trong kho tàng lý luận muôn mặt, muôn màu mà Cộng Sản đang lợi dụng, ta không nên lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Cộng Sản xé bỏ tất cả những lời cam kết, những hiệp định chính tay chúng đã trang trọng ký kết. Chúng vẫn có muôn ngàn lý do để giải thích cho đồng bọn và những người dân dưới quyền chúng một cách hợp lý. Chúng chỉ giữ lại những hiệp định, những lời cam kết nào, chúng thấy có lợi cho chúng mà thôi. Lời giải thích của chúng sẽ: nào là lúc đó do áp lực kinh tế, vì dân chúng quá đói khổ, khi đó tình hình biên giới căng thẳng.v.v… Vậy, cá nhân hay quốc gia nào đừng thắc mắc, than vãn trách móc chúng, mà hãy trách sự ngây thơ ấu trĩ của chính mình, vì chưa hiểu rõ bản chất của chúng mà thôi!...

Bốn mươi mốt: Cái Chết Ám Ảnh Người Tù Trong Xà Lim “Án Chém"

Giai đoạn này, thỉnh thoảng chúng mới gọi cung tôi, lúc thì điểm này, lúc thì điểm kia bắt tôi khai lại.
Chúng hy vọng dùng thời gian để lung lạc tôi, do đó chúng vẫn khích lệ, phỉnh phờ, xen lẫn đe dọa, hòng một lúc nào đó tôi không kìm hãm được, phải khai những điều mới với chúng. Nhưng, lúc này tâm hồn tôi như chết rồi! Trời đất đối với tôi bây giờ chỉ còn là một màu đen kịt. Tôi không còn sức phấn đấu nữa! Tôi căm hận cuộc đời, căm hận cả con người. Ngày đêm, tôi chỉ nghĩ đến cái chết! Chết là giải pháp đẹp nhất để giải quyết hết mọi khổ đau, dằn vặt, vò xé trái tim đã nhăn nhúm rỉ máu vì cuộc đời đã chà đạp, bóp nặn quá nhiều.
Chân tôi vẫn trong cùm, đêm ngày sưng buốt. Đi cung, gặp chấp pháp bây giờ tôi căm hận, không cần nói đến cùm nữa. Chấp pháp lại càng không bao giờ nói đến hay hỏi tôi bị cùm thế nào, nên tình trạng cứ thế trôi đi.
Một hôm, vào cuối tháng 1 năm 1964, tên Tư mở cùm, mở cửa buồng, bảo tôi ôm chăn chiếu chuyển đi chỗ khác. Tôi vội vàng vơ gọn chăn chiếu, ôm một bọc đi theo y. Ra khỏi xà lim II, y bảo tôi đi trước, chỉ vào phía trong sân trại chung, y đi đàng sau. Theo hướng y ra hiệu bằng tay, tôi tập tễnh đi mãi vào phía trong cùng đến một cái cổng sắt nhỏ, cánh cửa cũng bằng sắt. Một bức tường thấp chừng 2 mét rưỡi xây vòng cung, bên trên chăng 5, 6 lần dây điện trần, chạy dọc theo tường, ngăn cách với sân trại chung bên ngoài. Y đẩy cửa, tôi bước vào một cái sân nhỏ, diện tích khoảng 25m x 10m. Ở phía góc sân có chăng một số dây thép để phơi quần áo. Trên sân rụng đầy lá bàng khô, do một cành bàng to vươn vào từ cây bàng lớn ngoài trại chung, cạnh bức tường.
Quang cảnh thật là im lìm, vắng lặng. Tiếng sột soạt của những chiếc lá bàng khô, nghe rõ mồn một theo từng bước chân của y và tôi khi đi qua sân. Vào một căn nhà sơ sài, tối lờ mờ, tôi thấy một cái bàn và một cái ghế trong một khu trống, có lẽ là phòng trực xà lim. Y tiến đến trước buồng số 3, mở cửa rồi cúi xuống rút chốt cùm.
Đã ở xà lim khá lâu, tôi cũng có chút ít kinh nghiệm. Mặc y đứng chờ, tôi vào buồng, cúi xuống gầm sàn lấy cái chổi thanh hao quét rác bụi, trên chiếc sàn tôi sẽ nằm.Tôi bỏ bọc chăn chiếu lên sàn, rồi lại cúi xuống kéo cái bô ra khỏi gầm sàn, mở nắp. Bên trong, phân và nước giải của người ở trước đã đen xì. Tôi ôm bô phân ra cửa:
- Báo cáo ông cho đổ phân, vì phân đã lâu ngày, khó ngửi quá!
Y nhìn vào bô, ngần ngừ, rồi gật đầu. Chỉ tay về phía cạnh buống số 1, y nói:
- Khẩn trương lên, vào đổ bô đúng lỗ cầu tiêu, rồi lấy một bô nước dội cho sạch!
Tôi bước vào cánh cửa chỉ định, ngay phía ngách trái là một lỗ cầu tiêu, bên ngoài là một chỗ rộng có một vòi nước to, cao hơn mặt nền chừng 1 mét để tắm giặt. Vừa tráng bô, tôi vừa suy nghĩ về cái “cầu tiêu”. Chắc hẳn cầu tiêu này dành riêng cho cán bộ, chứ tù làm gì có thời gian để được vào đó đi cầu. Khi trở ra, tôi liếc nhìn thấy xà lim I sâu hun hút rất nhiều buồng, ngay đối diện với buồng số 3 của tôi là buồng số 14. Như vậy, xà lim này to gần bằng cả hai xà lim III và II gộp lại. Tôi chợt nhớ, có lần tên Tân nói với tôi là xà lim I thời Pháp thuộc, gọi là “xà lim án chém”. Tên Tư thấy tôi còn lúi húi đút chiếc bô vào gầm sàn, y quát:
- Bỏ chân vào, dềnh dàng mãi!
Tôi vội vàng nhấc cùm và cho một chân vào. Trước khi chốt cùm, y còn thò cổ vào nhìn rõ chân tôi đã ở trong cùm chưa, y mới đóng và khóa cửa. Tiếng chân lão lạo xạo đạp lên những chiếc lá khô ngoài sân, xa dần ra phía cổng.
Lại im lặng. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng sột soạt của những chiếc lá khô theo từng cơn gió lăn lóc, trên sân gạch phía bên ngoài. Tôi đang đưa mắt nhìn toàn bộ căn buồng, đột nhiên một giọng ồm ồm cất lên:
- Anh bạn buồng số 3 mới vào, khỏe không"


Tôi ngạc nhiên, vểnh tai nghe, phán đoán. Tiếng nói phát ra từ mãi tít phía trong, chắc của một buồng nào đó. Vì tôi chưa nắm rõ, cho nên tôi chỉ ho một tiếng to như đáp lại, không trả lời.
Trong ánh sáng tờ mờ, toàn bộ căn buồng cũng giống như bên xà lim II, chỉ khác ở miếng cửa sổ lớn phía sau đóng bè ra một cái khung gỗ, bọc kín cửa sổ, như một cái hòm không có đáy để không khí vào buồng. Có thể vì lâu ngày, những tấm ván co rút, nên hở từng khe rộng. Qua những khe hở này, tôi nhìn thấy bức tường Hỏa Lò là một trại giam lớn do Pháp nghiên cứu xây lên. Nhưng, đến tay Cộng Sản, vì chúng cũng đã từng đi tù nhiều, chúng đã thấy được những kẽ hở tù nhân có thể lợi dụng để liên lạc, gọi hỏi với tù nhân bên trong xà lim.
Vì đầu óc tôi đang ngâm dầm trong “hũ” sầu đau não nề, nên tôi chẳng thiết suy nghĩ thêm. Nằm lịm dần vào đêm thâu với nỗi niềm nghẹn uất, xen lẫn những tiếng thở dài khắc khoải chập chờn, mãi tới khi, tôi mơ màng nghe tiếng chìa khóa lẻng xẻng, tiếng cửa đóng ình ình, tôi mới dậy. Trời đã sáng tỏ.
Quản giáo đã đến làm việc từ bao giờ, đang mờ cửa cho các buồng ra đổ bô.
Không một tiếng nói. Chỉ có những tiếng đóng cửa, tiếng mở cửa, với những tiếng bước chân xèn sẹt nhiều lần, và lâu. Như thế, hầu như buồng nào cũng có người.
Đến lượt buồng tôi. Sau khi được rút chốt cùm và mở cửa, tôi khập khiễng ôm bô nước tiểu đi ra. À, tên cán bộ Chiến. Tôi thấy y một vài lần những buổi tôi đi cung. Y là Thượng sĩ, người miền Bắc, thái độ và tác phong của y như một nhà quân sự: Lạnh lùng, ăn nói cộc lốc, đôi lúc có ánh mắt nhìn phớt đời, một nét hơi khác với những tên công an khác.
Rồi cho đến lúc lấy cơm, cũng như trả bát của các buồng, tôi không hề nghe thấy một tiếng nói, dù nhỏ. Tất cả chỉ là những âm thanh của sự vật, những tiếng xèn xẹt vội vã của đôi bàn chân người, qua lại phía trước cửa buồng tôi. Những ngày sau đó cũng thế, ngày nào cũng như ngày nào, im lìm vắng lặng.
Nhiều lúc, tôi cảm tưởng như đang ngồi trong một cái nhà mồ hoang vắng nơi nghĩa địa, tha ma, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Trời đã sang Xuân, nhưng cơn rét cuối Đông vẫn kéo dài. Vẫn còn những trận gió mùa Đông Bắc về muộn, đem theo những giá buốt hành hạ những kẻ khốn cùng.
Ngón chân và ngón tay của tôi vẫn mọng đỏ, ngứa buốt đêm ngày. Những tháng trước đây, tôi chịu đựng một cách kiên trì bao nhiêu gian khổ, cùm kẹp, đói khát, đau đớn, nhưng trong tôi vẫn còn một niềm tin, một cái đích là Tổ Quốc miền Nam tự do của tôi, đang trên đà tăng trưởng một mặt: Kinh tế giầu mạnh, quần sự hùng cường, lòng dân thống nhất, để một ngày nào đó đè bẹp được lũ cộng đỏ bạo tàn. Cứu nhân dân miền Bắc khỏi cảnh tăm tối lầm than rên siết, đưa ánh sáng mặt trời đến khắp nơi trên nửa Bắc của Tổ Quốc Việt Nam thân yêu này, trong đó có tôi. Dù rằng, do những khắc nghiệt của cảnh sống tù đầy tôi có mất đi, vẫn còn ôm ấp trong lòng một niềm tin như vậy mà chết. Nhưng bây giờ, nhìn về miền Nam, tôi phải cụp mắt cúi đầu xuống. Một nỗi tủi hận len lén rỉ dần vào tim tôi.
Trước đây, trái tim tôi đã chết một nửa vì tôi sa cơ vào bàn tay kẻ thù, phải bao nhiêu đắng cay uất hận, nửa đó đã đen xì, lạnh lẽo; nhưng, tôi vẫn còn một nửa đỏ, nửa này vẫn còn cuồn cuộn máu hồng tươi thắm, sôi sục ngày đêm, có cơ làm ấm lại cả một trái tim. Nay, nửa đỏ còn lại của trái tim đó đã dần dần đen xạm, hết sinh khí, hết nhựa đời. Tư tưởng chết nhen nhúm dần, ám ảnh tôi suốt ngày đêm, cứ lởn vởn như một nghiệp chướng trói chặt tấm thân tàn.
Đêm nay cũng như nhiều đêm trước, sau một giấc ngủ đầy khắc khoải với bao nỗi đắng cay của kiếp tù đầy, tôi mở mắt mệt nhọc ngồi dậy. Chẳng biết lúc này là giờ nào trong đêm, như thường lệ tôi lựa thế đứng một chân xuống đất, cúi xuống gầm sàn lấy cái bô lên, để chuẩn bị đi đại tiện. Vì ăn uống không đủ, lại còn bị cùm cứ phải nằm yên một chỗ, nên thường đi về đêm. Sau khi đã để cái bô lên sàn, đúng nơi thuận tiện nhất, tôi lựa nghiêng chiếc chân trong cùm, quỳ một chân để ngồi lên bô. Trời vẫn lạnh như cắt da thịt, tôi khoác chiếc chăn, mặt nhăn nhó vì ngón chân, ngón tay bị cước, vì cạnh cùm đang nghiến vào ống xương chân, vì miệng bô đã nhiều chỗ rỉ sét hằn sâu vào hai bên mông, vì thế ngồi gò bó, người phải gù vẹo đi một bên, và vì táo bón… cho nên, chừng 20 phút sau, quá đau mỏi, tôi dịch người để chuyển thế. Vô ý, cả bô phân và nước giải đổ nằm ra sàn. Còn người tôi lạng trượt, bật ngửa đầu xuống nền. Do cái chân trong cùm nên đầu tôi không thể xuống tới nền, nhưng cái chân bị cùm khứa mạnh đứt một miếng to, máu chảy chan hòa. Lưng đập vào mép sàn đau điếng, mãi tôi mới bò dậy được. Chăn chiếu, quần áo đầy nước giải, đây đó dăm ba hòn phân trên chăn, trên sàn.
Trời rét buốt như kim châm vào da thịt. Ôi! Kiếp tù, còn cảnh nào cay đắng hơn. Tay chân quần áo chỗ nào cũng nước đái. Chỗ cổ chân đau buốt, máu vẫn chảy, tôi chỉ biết lấy tay bóp hai mép đứt để đỡ chảy. Máu bây giờ loãng quá không đông được! Không có cái gì, một miếng giấy hay miếng vải để buộc cho máu cầm. Làm sao được nữa hả trời! Một tay nắm vết thương, một tay lật chiếc bô lên, rồi cũng chính mình phải bốc những hòn phân của mình vào bô. Tôi cố lựa thế nhấc cái bô xuống nền, rồi cũng phải dùng bàn tay để vét những vũng nước giải, trên sàn xuống dưới nền.
Vì nước giải ướt, người tôi tự nhiên run lên cầm cập, hai hàm răng cứ canh cách đánh vào nhau. Thôi đành máu chảy kệ máu, tôi cố hai tay vắt chỗ chăn ướt, còn một khoảng khô, tôi cứ phải cuốn đại vào người cho đỡ lạnh đã. Nhưng, người tôi vẫn cứ run bần bật, không có cái gì là ấm cà. Cuộc đời nhiều lửa quá! Cho tôi xin một ngọn lửa đời, người ơi!
Vết thương ở chân tôi, khi nãy máu đã ngưng chảy, nhưng bây giờ vì cái chân cũng run lật bật, làm vết thương rung động, máu lại rỉ ra. Cứ như thế này, tôi cũng chưa biết mình sẽ ra sao. Bỗng chiếc cửa con xoạch mở. Tôi chả nhìn rõ ai, vội vàng lập cập:
- Báo cáo cán bộ...
Một giọng khàn cộc lốc:
- Cái gì"
- Thưa cán bộ, chân tôi bị thương, máu chảy ra không cầm được, xin cán bộ cho tôi một tí thuốc lào hay thuốc lá, tôi rịt cho cầm máu"...
Tôi cố chỉ chỗ máu chảy, nhưng tôi biết ở vị trí chỗ cửa con như thế, không thể nào nhìn góc độ này được, nên tôi quệt một tay xuống chỗ máu dưới sàn đã đông tím lại, rồi giơ bàn tay đầy máu ra.
Vẫn khàn khàn như tiếng ngan đực, y hỏi:
- Làm sao bị thương"
- Thưa ông, tôi đi ngoài ngồi trên bô bị trượt ngã…..
Không một tiếng trở lại, cửa con đóng lại. Tôi cũng chẳng có thể đoán được người đó là ai, dù ngày mai tôi có gặp. Có thể, người đó không hút thuốc lá cũng như thuốc lào, đã phải đi xin người khác. Một hành động đúng nghĩa của tiếng “Người!” Trong những lúc thế này, thuốc lào, thuốc lá đắp vết thương là một thần dược. Chỉ một tí là cầm máu. Máu không chảy nữa, và hơi ấm trong người đã có chút ít, mặt sàn và chiếu cũng khô một chút, nên tôi thấy đỡ run, nhưng người tôi vẫn rã rời như sắp hết hơi thở. Không nằm được nữa vì chăn chiếu hãy còn ẩm ướt, tôi lấy chiếc vỏ ba lô vẫn gối đầu, giở ra trùm kín cổ, rồi ngồi nghiêng, dựa vào tường nhắm mắt chờ trời sáng.
Tôi cứ ngồi nghe ngóng tiếng đêm thâu với cõi lòng đã rửa nát, tả tơi. Tôi nhìn thấy những ngày tới của đời mình, còn đầy rẫy chất chồng thương đau. Để bấu víu vào kiếp sống, tôi phải cố tìm một đốm lửa, dù là đốm lửa sắp tàn trong cái đêm đen dày đặc, cả bốn phương đều mịt mùng tăm tối này. Nhìn lại suốt của đời mình, từng mảnh đời to nhỏ xê dịch đẩy xô, theo ngọ cuồng lưu của kiếp người:
- Học hành không thành đạt; đời vẫn lang thang, dật dờ, tay trắng.
- Nhiệm vụ bé nhỏ đất nước trao cho, không có tài, khả năng lại hèn kém, nên đã thất bại, rơi vào tay kẻ thù.
- Đối với gia đình phụ mẫu, thiếu bổn phận làm con, làm anh. Chưa có một việc nhỏ nào gọi là đền công ơn trời biển, của đấng sinh thành.
- Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, thường tỏ với cơ quan và các linh mục mình là một thanh niên coi thường nguy hiểm, coi cái chết như một giấc ngủ. Nhưng trong thực tế, đêm hôm chúng đưa đi bắn, đã són đái toát mồ hôi ra. Như thế, rõ ràng là một người hèn, sợ chết.
Đời một con người hèn kém tầm thường như vậy, có gì để đáng sống cho tốn cơm xã hội, cho chật chỗ loài người! Tuy đạo Công Giáo cấm ngặt con chiên tự tử. Nhưng, tôi đã cầu xin Chúa và Mẹ Maria quá nhiều rồi. Lòng tin của tôi đối với Chúa cũng khủng hoảng, tan hoang như lòng người dân miền Nam đối với chính quyền lúc này. Nhìn khắp bốn phương, tôi không còn một điểm nào để bấu víu, dù cho tạm bợ, để sống. Huống chi trước mắt, với sự hành hạ đày đọa của kẻ thù như thế này, trước sau, sớm muộn gì tôi cũng sẽ chết. Như vậy, tôi còn phải chịu nhiều khổ đau cay đắng, tủi hận nữa, rồi cũng chết! Như thế, quả là vô lý, uất ức! Tôi được sinh ra làm một con người giống như mọi người khác, tại sao tôi không có chủ quyền với bản thân tôi" Thượng Đế đã ban cho tôi cái quyền tối ưu thiêng liêng của con người là sự tự do. Cộng sản đã tước đoạt của tôi hết: từ miếng ăn, tấm áo, đến cả những động tác thong dong tối thiểu nhất của cơ thể. Chỉ còn sự sống của tôi. Quyền tối thượng này chỉ dành cho Chúa và tôi mà thôi. Vậy, Chúa ơi! Ở niềm tin này, con xin giành lấy chủ quyền sự sống của Chúa với con, khỏi tay lũ chó má vô thần. Con xin quyết định lấy sự sống của con.
Sau bao ngày đêm đấu tranh tư tưởng gay gắt, cuối cùng, tôi quyết định từ giã cõi đời này. Chết trong lúc này là chiến thắng kẻ thù, là xóa sạch hết mọi vấn đề. Từ đấy, óc tôi dập dờn nghĩ đến bố mẹ, các em, họ hàng, bạn bè quen biết. Nghĩ đến các nhà bác học, những học giả, những nhân vật nổi danh. Có những người đã phải trải qua bao nhiêu năm công phu mệt mài học tập, nghiên cứu, bao nhiêu năm lăn lộn làm nên những sự nghiệp lẫy lừng có lợi cho dân, cho nước, cho xã hội loài người. Họ đáng muôn ngàn lần sống, lại lăn đùng ra chết, để lại tiếc thương cho nhân quần xã hội như: Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Pascal, Kennedy, Khái Hưng, Hàn Mạc Tử, Bethoven, v.v… Họ đáng sống, cần sống, thì lại chết. Còn loại thấp hèn vô ích như tôi, cần chết thì lại sống. Nếu cái chết của tôi được thay cho những người ấy, cũng còn có chút ý nghĩa…..
Đã quyết định rồi, bây giờ, tôi chỉ còn tìm cách chết! Tôi nhìn lên cái thế của chiếc cửa sổ phía sau. Tôi nhìn đến bộ quần áo sọc họ vừa phát cho tôi ngày 16 tháng 10 vừa qua, vải hãy còn bền tốt. Tôi nghĩ đến lão Kim già mắt lơ mơ, hay trực vào những ngày Chủ Nhật. Dần dần tôi hình thành một kế hoạch nhỏ để… chết!
Ngay hai ngày hôm sau, tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Hàng ngày, lợi dụng những lúc cán bộ mở cửa, hay đóng cửa buồng cũng như cửa nhà tắm, có những tiếng xọc xạch ầm ầm, tôi xé quần ra thành những miếng dài dọc theo quần, mỗi miếng rộng độ 4, 5 phân. Vải còn tốt nên rất dai, lúc đầu tôi phải dùng răng cắn ra, rồi từ chỗ cắn mới xé được. Xé vào những lúc ồn ào có hai điểm lợi: có âm thanh che lấp tiếng xé vải, và chắc chắn nhất, là cán bộ đang bận mở hay đóng cửa, không thể rình ở chỗ cửa con.
Rồi chỉ cần đánh một chiếc thừng dài độ 1 mét 20 đến 1 mét 40 là được rồi. Thế mà cũng phải mất hơn 4 ngày. Trong quá trình, lúc đi đổ bô cũng như lúc lấy cơm, trả bát, tôi đều phải cuốn trong người, bởi vì bất chợt cán bộ hay vào ngó buồng, đôi khi lục tung chăn chiếu khám xét, khi mình còn ở trong buồng tắm. (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
tác giả Đinh Xuân Quân sinh trong một gia tộc Miền Bắc theo Công Giáo từ vài thế kỷ, qua các thời kỳ Quốc-Cộng đảng tranh, Hoàng Đế Bảo Đại, TT Ngô Đình Diệm, Đệ Nhị Cộng Hòa, du học, về VN làm việc, vào tù cải tạo sau 1975, vượt biên, làm một số dự án LHQ giúp các nước nghèo (kể cả tại VN)
Một chiếc máy bay rớt tại South Dakota hôm Thứ Bảy làm thiệt mạng ít nhất 9 người, gồm phi công và 2 trẻ em.
Cảnh sát lập hồ sơ khởi tố Nguyen về tội bạo lực gia đình, say, và 2 tội gây nguy hiểm cho trẻ em. Nguyen được tạm rời nhà tù quận Polk County Jail vào sáng Thứ Sáu 29/11/2019.
Mười người đã bị bắn tại Khu Phố Pháp ở thành phố New Orleans vào sáng Chủ Nhật, 1 tháng 12, theo cảnh sát cho biết.
Diễn cẩn thận từng bước, hết sức chậm rãi đi xuống đồi do bờ triền dốc đứng. Hân đi sau tay phải ôm chặt tay trái Diễn và nửa thân xô nghiêng ép vào người anh.
Như chúng ta biết, đảng SPD (Đảng Dân chủ Xã hội Đức) đã tìm kiếm lãnh đạo mới từ sáu tháng nay. Vào mùa hè 2019, nhà lãnh đạo đảng trước đó Nahles đã từ chức sau các cuộc tranh giành quyền lực nội bộ. Có nhiều ứng cử viên nhưng sau cuộc bầu cử sơ bộ chỉ còn hai cặp vào chung kết.
Hàng triệu người nghèo có thể bị mất phiếu thực phẩm (food stamps) quan trọng theo những thay đổi luật lệ được đề nghị bởi chính phủ Trump.
Con sông Hoàng Hạ chảy xuyên qua trấn Hoàng Hoa quanh năm xanh biếc, nước từ miền tuyết lãnh tan ra nên tinh khiết vô cùng.
Lý do để viết bài này là vì bản thân người viết có sai lầm cần bày tỏ. Tuy rằng sai lầm đã hiệu đính, nhưng cũng cần nói ra, vì Đức Phật đã dạy rằng hễ sai thì nên tự mình bày tỏ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.